Trang 06 | Đại Bảo Tháp Mandala Tây Thiên | Đại Bảo Tháp | Đại Bảo Tháp Tây Thiên

Trang 06

PHẨM PHẠM HẠNH THỨ HAI MƯƠI

(Hán bộ trọn quyển 14, 15, 16, 17 và phần đầu quyển thứ 18)

Trang 06

Tâu Đại vương ngày trước trên bờ sông Hằng có năm trăm ngạ quỷ đã nhiều năm chẳng thấy nước, chẳng được uống, dầu họ đến bên sông nhưng họ thấy thuần là lửa, vì quá đói khát nên họ kêu la than khóc. Lúc đó đức Như Lai ngồi dưới bóng cây ở rừng Uất Đàm Bát cạnh bờ sông. Các ngạ quỷ đến bạch Phật: “Thế Tôn! Chúng tôi đói khát sắp chết đến nơi.

Phật nói: “Sao các người chẳng uống nước sông Hằng?”.

Các ngạ quỷ thưa: “Đức Như Lai thấy nước còn chúng tôi thấy là lửa”.

Phật nói: “Trong sông hằng toàn nước trong mát thật chẳng phải lửa. Vì nghiệp ác nên các người sinh tâm điên đảo cho là lửa. Phật sẽ trừ tâm điên đảo cho các người, để các người thấy được nước.

Như Lai liền vì các ngạ quỷ giảng nói tội lỗi của tâm xan tham.

Các ngạ quỷ thưa: “Nay chúng tôi đang đói khát, dầu nghe lời thuyết pháp nhưng đều chẳng nhập tâm”.

Phật nói: “Các người nếu đói khát có thể vào sông Hằng tha hồ uống đó”.

Nhờ công đức của Phật các ngạ quỷ uống đặng nước. Uống nước xong họ trở về chỗ Phật ngồi. Đức như Lai vì họ thuyết pháp, tất cả đều phát tâm vô thượng Bồ Đề. Lúc đó năm trăm ngạ quỷ đều đặng sinh lên cõi trời.

Do cớ đây nên đức Phật hiệu là Y Vương vô thượng, chẳng như hàng lục sư ngoại đạo.

Tâu Đại Vương! Nước Xá Bà Đề có đảng cướp năm trăm người, bị vua Ba Tư Nặc bắt được khoét cả đôi mắt bỏ trong rừng sâu. Đảng cướp khổ sở khóc than tưởng niệm đến Phật. Đức Phật xót thương hiện thân trước đảng cướp khuyên bảo rằng: Các người phải khéo giữ gìn nhân khẩu, chớ gây tạo nghiệp ác nữa. Đảng cướp nghe tiếng Phật dịu dàng trong trẻo, đôi mắt sáng trở lại. Đồng chắp tay đỉnh lễ Phật bạch rằng: Thế Tôn! Nay chúng tôi biết rõ Phật có lòng đại từ che chở tất cả chúng sinh, chẳng phải riêng là nhân thiên.

Đức Như Lai vì họ thuyết pháp tất cả đều được phát tâm vô thượng Bồ Đề. Do đây nên đức Như Lai thật là lương y vô thượng trong thế gian, chẳng phải như hàng lục sư ngoại đạo.

Tâu Đại vương! Nước Xá Bà Đề có người Chiên Đà la tên là Khí Hứ giết hại nhiều mạng người, gặp được đệ tử của Phật là ngài Ma Ha Mục Kiền Liên, liền phá được nhân địa ngục sinh lên cõi trời Đao Lợi. Vì có hàng thánh đệ tử như vậy nên đức Như Lai hiệu là Y Vương vô thượng chẳng phải như hàng lục sư ngoại đạo.

Tâu Đại Vương thành Ba La Nại có trưởng giả tử tên là A Dật Đa, dâm bà mẹ, giết chết ông cha. Bà mẹ lại tư thông với người khác. Trưởng gỉa tử bèn lại giết mẹ. Có vị A La Hán là thân hữu của nhà này. Vì hổ thẹn nên Trưởng giả tử lại giết A La Hán. Sau đó Trưởng giả tử đến Kỳ Hoàn Tinh Xá cầu xuất gia. Các Tỳ kheo rõ biết người này phạm ba tội nghịch, nên không vị nào dám nhận. Trưởng giả tử oán gận, giữa đêm phóng lửa đốt phòng của chư tăng, giết hại nhiều người vô tội. Lúc sau đó Trưởng giả tử qua thành Vương Xá cầu xin đức Như Lai cho xuất gia. Đức Như Lai liền nhận lời rồi giảng nói pháp yếu khiến tội nghịch nặng lần lần giảm nhẹ. Trưởng giả tử phát tâm vô thượng Bồ đề. Do đây nên đưc Phật hiệu là Y Vương vô thượng.

Đại Vương bản tính bạo ác nghe lời người ác là Đề Bà Đạt Đa, thả voi say để chà Phật, voi thấy Phật liền tỉnh ngộ, Phật lấy tay xoa đầu voi, nói pháp yếu voi phát tâm vô thượng Bồ Đề.

Tâu Đại Vương! Súc sinh thấy Phật còn phá được nghiệp quả súc sinh, huống là loài người ư!

Đại Vương nếu gặp được Phật, bao nhiêu trọng tội tất sẽ tiêu trừ.

Đưc Thế Tôn lúc chưa thành vô thượng Bồ Đề, Ma Vương dẫn vô lượng quyến thuộc đến chỗ Bồ Tát ngồi, Bồ Tát dùng sức nhẫn nhục phá tan ác tâm của ma, làm cho ma thọ pháp phát tâm vô thượng Bồ Đề.

Tâu Đại Vương có Khoáng Dã quỷ giết hại nhiều người. Vì cứu Thiện Hiền trưởng giả, đức Như Lai đến thôn Khoáng Dã hiện thân thuyết pháp. Khoáng Dã quỷ nghe pháp vui mừng, bèn đem Thiện Hiền Trưởng giả trao cho Như Lai, rồi sau bèn phát tâm vô thượng Bồ Đề.

Tâu Đại Vương Nước Ba La Nại có người hàng thịt tên là Quảng Ngạch, mỗi ngày giết hại cả trăm ngàn con dê, gặp ngài Xá Lợi Phất liền thọ bát quan trai một ngày một đêm. Nhờ công đưsc này, sau khi chết Quảng Ngạch sinh là con trai của Tỳ Sa Môn Thiên Vương. Đệ tử của đức Như Lai còn có công đức lớn như vậy huống là Phật.

Tâu Đại Vương Thành Tế Thạch ở bắc Thiên Trúc, có vua Long ẩn vì tham ngôi vua mà giết hại vua cha, về sau sinh lòng ăn năn bỏ nước đến xin đức Phật xuất gia, làm Tỳ Kheo, tội nặng tiêu diệt phát tâm vô thượng Bồ Đề.

Đức Phật có vô lượng vô biên công đức như vậy.

Tâu Đại Vương! Phật có một người em họ là Đề Bà Đạt Đa, ông này phá tăng, làm thân Phật chảy máu, giết chết A La Hán Liên Hoa Tỳ Kheo Ni, phạm cả ba tội nghịch, đưc Như Lai vì ông giảng nói pháp yếu làm cho tội nghịch nặng của ông được giảm nhẹ, nên đức Như Lai là Y Vương vô thượng chẳng phải như hàng lục sư ngoại đạo.

Đại Vương nếu có thể tin lời của hạ thần xin Đại Vương mau đến đức Như Lai. Nếu Đại Vương chưa tin, hạ thần cũng mong Đại Vương suy nghĩ kỹ lại.

Tâu Đại Vương! Chư Phật có lòng Đại Bi che chở tất cả, chẳng hạn cuộc nơi một người. Chính pháp của Phật rộng rãi, bao gồm chẳng sót với kẻ oán người thân Phật xem bình đẳng lòng không ghét không yêu.

Đức Như Lai chẳng phải là thầy riêng của bốn bộ chúng, mà là thầy của tất cả trời, người rồng, thần, địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Tất cả chúng sinh cũng nên xem Phật như cha mẹ. Đức Như Lai chẳng riêng vì người sang giàu như vua Bạt Đề Ca mà thuyết pháp, cũng thuyết pháp cho cả người hạ tiện như U Ba Ly. Chẳng riêng thọ xứ cúng dàng của Trưởng Giả Tu Đạt Đa, Trưởng Giả A Na Bân Kỳ mà cũng nhận lấy đồ ăn của người nghèo. Đức Phật chẳng riêng vì hạng trí huệ như ngài Xá Lợi Phất mà thuyết pháp, cũng giáo hóa cả người ngu tối như Châu Lợi Bàn đặc. Đức Như Lai chẳng riêng cho người tính không tham như ngài Ca Diếp xuất gia mà cũng cho cả người rất tham như Bàn Đà xuất gia, đức Phật chẳng riêng cho người ít phiền não như Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp xuất gia mà cũng cho người phiền não sâu nặng tạo trọng tội như ông Tu Đà Da em vua Ba Tư Nặc xuất gia. Đức Phật chẳng vì ông Tá Thảo cung kính cúng dàng mà nhổ từ gốc sân hận cho ông ấy cũng độ cả kẻ ác tâm muốn làm hại là Ương Quật Ma La. Chẳng riêng độ người xuất gia làm cho chứng đặng bốn thánh quả, cũng làm cho hàng tại gia chứng đặng ba thánh quả, đức Như Lai chẳng riêng vì người nhàn tịch như ông Phú Đa La mà thuyết pháp, cũng giảng thuyết cho vua Tần Bà Ta La bận rộn việc nước. Người nghiền rượu như ông Út Già Trưởng Giả Phật cũng giáo hóa chớ chẳng phải riêng vì những người kiêng rượu. Đức Phật cũng giáo hóa nàng Bà Tư Tra là người mẹ cuồng tâm vì con chết, chớ chẳng phải riêng thuyết pháp cho bậc nhập thiền định như Ly Bà Đa. Đức Phật chẳng riêng vì đệ tử của mình mà cũng thuyết pháp cho hàng ngoại đạo Ni Kiền Tử. Phật cũng giáo hóa cho người già suy tám mươi tuổi, cũng như với hạng trai trẻ hai mươi lăm. Người căn lành chưa thuần thục, cũng được Phật giáo hóa như người đã thuần thục, Phật thuyết pháp cho người dâm nữ Liên Hoa cũng như vì Mạt Lợi phu nhân. Phật nhận món ăn độc của Trưởng Giả Thi Lợi Cúc Đa như lãnh thực phẩm thượng soạn của vua Ba Tư Nặc.

Tâu Đại Vương Trưởng Giả Thi Lợi Cúc Đa trước kia cũng tạo tội nghịch, nhờ đến Phật nghe thuyết pháp bèn phát tâm vô thượng Bồ Đề.

Giả sử trong một tháng thường đem y phục vật thực cung kính cúng dường cho tất cả chúng sinh, chẳng bằng người niệm Phật khoảng một niệm.

Giả sử đúc vàng làm người, xe ngựa chở đầy châu báu đến số trăm dùng để bố thí, chẳng bằng người phát tâm muốn đến Phật dở chân bước một bước.

Giả sử dùng trăm xe voi chở các thứ trân bảo của nước Đại Tần, cùng trăm người nữ nước ấy thân đeo đầy chuỗi ngọc dùng để bố thí, vẫn không bằng bước một bước hướng đến Phật.

Cho đến giả sử Đại Vương cung kính cúng dường hàng hà sa vô lượng chúng sinh, chẳng bằng một lần đến rừng Long Thọ thành tâm nghe đức Như Lai thuyết pháp.

Vua A Xà Thế bảo rằng: “Này Kỳ Bà đức Như Lai tâm tính đã điều nhu, thời quyến thuộc phải là người điều nhu, như rừng Chiên Đàn thời thuần cây chiên đàn, đức Như Lai thanh tịnh quyến thuộc của ngài cũng thanh tịnh, như rồng thời thuần dùng rồng làm quyến thuộc. Đức Như Lai tịch tịnh không tham không phiền não, quyến thuộc của ngài cũng không phiền não. Nay ta là người cực ác, thân thể hôi nhơ, thuộc hạng địa ngục, đâu đáng là người đến chỗ đức Như Lai. Giả sử ta có qua, e rằng đức Như Lai chẳng đoái tới. Khanh dầu khuyên ta, nhưng ta xấu hổ sợ sệt không có lòng muốn đi.

Vua A Xà Thế nói vừa dứt, trên không bỗng có tiếng rằng: Phật pháp vô thượng sắp suy mất, dòng sông pháp rộng sâu sắp cạn, đèn sáng đại pháp sắp tắt, núi pháp sắp lở, thuyền pháp sắp chìm, cầu pháp sắp hư, điện pháp sắp đổ, tràng pháp sắp ngã, cây pháp sắp gãy, bạn lành sắp đi, sự khủng bố sắp đến, chúng sinh sắp đói khát, bệnh dịch phiến não sắp lưu hành, sự tối tăm sắp đến, ma vương vui mừng cởi mở giáp trụ, mặt trời Phật sắp lặn nơi núi Đại Niết Bàn. Phật nếu diệt độ tội nghịch trọng của Đại Vương không còn ai trị được.

Nay Đại Vương đã tạo tội nghiệp A Tỳ địa ngục, đã có tội nghiệp tất phải thọ báo. Sao gọi là A Tỳ địa ngục? A là không, Tỳ là xen hở, tức là Vô Gián. Người đọa trong đó luôn bị khổ không hở, một người tội thân lớn đầy khắp cả ngục tám muôn do tuần, nhiều người tội, thân mỗi người cũng đầy khắp cả ngục không chướng ngại nhau, do đây nên gọi là ngục Vô Gián.

Trong địa ngục lạnh tạm thời có gió ấm nóng, trong địa ngục ấm nóng tạm thời có gió mát lạnh, địa ngục A Tỳ toàn không có việc này. Ngục A Tỳ bốn phía có cửa, ngoài mỗi cửa đều có ngọn lửa rất mạnh cháy suốt cả bốn phương tám muôn do tuần, vách ngục bằng sắt, nền cũng bằng sắt, lưới phủ trùm ở trên lửa, dưới nền cháy suốt đến nóc ngục, lửa trên nóc cháy suốt đến nền ngục. Người tội trong đó bị đốt cháy đau khổ như cá bị chiên trong chảo. Phạm một tội nghịch bị trọn sự khổ như vậy, nếu tạo hai tội nghịch, thời sự khổ gấp hai, nếu tạo đủ ngũ nghịch thời sự khổ gấp năm lần. Tôi biết chắc ác nghiệp của Đại Vương không thể thoát khỏi. Mong Đại Vương mau đến gặp Phật, ngoài Phật ra không ai cứu Đại Vương được. Vì xót thương nên tôi có mấy lời khuyên Đại Vương.

Vua A Xà Thế trong lòng quá sợ, toàn thân run rẩy, ngước mặt lên hỏi rằng: Ngài là ai? Sao chỉ nghe tiếng mà chẳng hiện thân?

Trên hư không có tiếng đáp: “Tôi là Tần Bà Ta La, cha đẻ của Đại Vương.

Nay Đại Vương phảinghe lời Kỳ Bà, chớ nghe lời tà kiến của sáu đại thần”.

Nghe xong vua A Xà Thế ngất xỉu trên đất, ghẻ nhọt thêm nhiều càng hôi nhơ hơn trước. Dầu ngự y đem thuốc đến thoa, nhưng ghẻ độc càng thêm nóng nhức.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn ở trong rừng Song Thọ, Phật nhãn thấy vua A Xà Thế ngất xỉu xuống đất, liền bảo đại chúng: “Nay Phật sẽ vì vua này ở lại đời đến vô lượng kiếp chẳng nhập Niết Bàn”.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Đức Như Lai nên vì vô lượng chúng sinh chẳng nhập Niết Bàn. Cớ sao riêng vì vua A Xà Thế?

Này Thiện nam tử! Trong đại chúng đây không có một người nào cho rằng Phật quyết định sẽ nhập Niết Bàn. Vua A Xà Thế cho rằng Phật quyết định sẽ nhập Niết Bàn hẳn nên ngất xỉu.

Này Thiện nam tử! Như Phật nói vì A Xà Thế chẳng nhập Niết Bàn ý nghĩa ấy rất sâu kín ông chưa hiểu được. Ta nói “vì” là vì tất cả phàm phu, A Xà Thế là khắp đến tất cả người tạo tội ngũ nghịch. Lại: “vì” chính là tất cả chúng sinh hữu vi. Ta trọn chẳng vì vô vi chúng sinh mà ở lại đời. Luận về vô vi thời chẳng phải là chúng sinh. “A Xà Thế” chính là người đầy đủ phiền não. Lại “vì” chính là chúng sinh chẳng thấy Phật tính. Nếu đã thấy Phật tính thời Phật trọn chẳng vì họ mà ở lâu nơi đời. Vì người thấy Phật tính thời chẳng phải là chúng sinh. “A Xà Thế” chính là tất cả người chưa phát tâm vô thượng Bồ Đề.

Lại “vì’ là vì hai chúng Đại Ca Diếp và A Nan. “A Xà Thế” chính là Phi hậu của nhà vua và tất cả phụ nữ trong thành Vương Xá. Lại “vì” là nói Phật tính, “A Xà” là chẳng sinh “Thế” là oán. Bởi chẳng sinh Phật tính thời sinh phiền não oán thù. Vì sinh phiền não oán thù nên chẳng thấy Phật tính. Bởi chẳng sinh phiền não thời thấy được Phật tính. Do thấy Phật tính thời được an trụ Đại Niết Bàn. Đây gọi là bất sinh, đây gọi là “vì A Xà Thế”.

Này Thiện nam tử! “A Xà” là chẳng sinh, chẳng sinh gọi là Niết Bàn. “Thế” là nói thế pháp. “Vì” nói là chẳng nhiễm ô. Bởi tám pháp trong đời chẳng ô nhiễm được, vô lượng vô biên vô số kiếp chẳng nhập Niết Bàn. Do đây nên Phật nói vì A Xà Thế vô lượng kiếp chẳng nhập Niết Bàn.

Này Thiện nam tử! Lời nói sâu kín của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn. Phật, Pháp, Tăng, Bồ Tát Ma Ha Tát đều chẳng thể nghĩ bàn. Kinh Đại Niết Bàn cũng chẳng thể nghĩ bàn.

Bây giờ đức Thế Tôn vì vua A Xà Thế mà nhập nguyệt ái tam muội, phóng ánh sáng lớn. Ánh sáng này mát mẻ chiếu đến thân vua. Ghẻ lở trên thân liền lành, hết nóng hết nhức.

Vua bảo Kỳ Bà: “Ta từng nghe: Lúc sắp tận kiếp ba mặt trăng đồng hiện lên, do đó những khổ hoạn của chúng sinh đều trừ. Nay chưa đến thời kỳ ấy, do đâu có ánh sáng mát mẻ chiếu đến thân ta làm cho thân ta được an ổn ghẻ lở đều lành?

Kỳ Bà tâu: Đây không phải là tận kiếp, không phải ánh sáng của ba mặt trăng, cũng chẳng phải ánh sáng mặt trời, tinh tú bảo châu, dược thảo cũng chẳng phải ánh sáng chư thiên.

Vua lại hỏi như vậy thời là ánh sáng của ai?

- Tâu Đại vương! Đây là ánh sáng của đấng Thiên Trung Thiên. Ánh sang này chẳng có ngằn mé, chẳng nóng, chẳng lạnh, chẳng thường, chẳng diệt, chẳng phải sắc cùng vô sắc, chẳng phải tướng cùng vô tướng, chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng. Vì độ chúng sinh nên hiện ra có tướng có thể thấy. Dầu thấy được nhưng thiệt ra ánh sáng này vốn không tướng.

Vua nói: Này Kỳ Bà! Đấng Thiên Trung Thiên do nhân duyên gì mà phóng ánh sáng này?

- Tâu Đại Vương! Nay tướng lành này chính là vì Đại Vương. Bởi vừa rồi Đại Vương nói trong đời không có lương y trị được thân bệnh, tâm bệnh của Đại Vương, nên đức Thế Tôn phóng ánh sáng này, trước chữa lành bệnh nơi thân của Đại Vương, rồi sau sẽ trị bệnh nơi tâm.

- Này Kỳ Bà đức Như Lai cũng nghĩ tưởng đến ta ư?

- Tâu Đại Vương! Ví như một người mà có bảy đứa con, một đứa bị bệnh, lòng cha mẹ săn sóc đứa con bệnh tật nhiều hơn. Cũng vậy, đức Như Lai chẳng phải là không bình đẳng đối với chúng sinh, nhưng với người có tội thời lòng Phật thiên trọng. Với kẻ phóng dật lòng Phật thương tưởng, người chẳng phóng dật thời Phật phóng xả. Người chẳng phóng dật là bực đệ lục trụ Bồ Tát. Chư Phật đối với chúng sinh, chẳng nhìn ngó đến dòng họ, già trẻ, giàu nghèo, năm tháng ngày giờ, nghề nghiệp khéo vụng, tôi tớ hèn hạ, chỉ ngó đến chúng sinh có tâm lành. Nếu người có tâm lành thời Phật thương tưởng.

Tâu Đại Vương! Đây chính là đức Như Lai nhập nguyệt ái tam muội phóng ra ánh sáng ấy.

Nhà vua hỏi: Sao gọi là nguyệt ái tam muội?

Kỳ Bà tâu: “Ví như ánh sáng mặt trăng có thể làm cho tất cả hoa sen sinh nở xòe, cũng vậy, nguyệt ái tam muội có thể làm cho tâm lành chúng sinh nở xòe.

Ví như ánh sáng mặt trăng có thể làm cho tất cả người đi đêm vui mừng, cũng vậy, nguyệt ái tam muội có thể làm cho người tu tập đạo Niết Bàn vui mừng.

Ví như ánh sáng mặt trăng từ đêm mùng một đến rằm, hình sắc ánh sáng lần lần thêm đầy đủ, cũng vậy, nguyệt ái tam muội làm cho người mới phát tâm những căn lành lần lần thêm lớn đầy đủ Đại Niết Bàn.

Ví như ánh sáng mặt trăng từ đêm mười sáu đến đêm ba mươi hình sắc ánh sáng lần lần giảm bớt, cũng vậy, nguyệt ái tam muội có thể làm cho phiền não lần lần tiêu diệt.

Ví như đang lúc nắng nóng, tất cả chúng sinh thường nghĩ đến ánh sáng mặt trăng, lúc trăng sáng đã soi thời liền hết nóng bức, cũng vậy nguyệt ái tam muội có thể làm cho chúng sinh trừ được phiền não nóng bức.

Ví như mặt trăng tròn là vua trong các tinh tú, là cam lộ vị, tất cả chúng sinh đều ưa thích, cũng vậy, nguyệt ái tam muội là vua trong các pháp lành, là cam lộ vị chúng sinh đều ưa thích.

Vua nói: Ta nghe đức Như Lai chẳng cùng người ác ở chung đàm luận. Như biển lớn chẳng chứa tử thi. Như chim Oan Ương chẳng đậu nhà xí. Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhân chẳng ở chung với quỷ. Chim Cưu Súy La chẳng đậu cây khô. Cũng vậy, ta đâu có thể gần được đức Như Lai. Theo ta xét đức Như Lai thà gần voi say, sư tử, cọp, sói, lửa hừng, trọn chẳng gần gũi nơi người tạo tội ác quá nặng. Vì vậy nên ta không lòng nào dám đến gặp Phật.

Kỳ Bà tâu: Ví như người khát nước thời gấp đến suối trong, người đói cầu vật thực, người kinh sợ cầu cứu, người bệnh tìm lương y, người nóng bức tìm bóng mát, người lạnh tìm lửa. Nay Đại Vương cũng nên cầu Phật như vậy. Đức Như Lai còn vì hạng Nhất Xiển Đề mà thuyết pháp huống là Đại Vương chẳng phải Nhất Xiển Đề.

Vua nói: Này Kỳ Bà! Ta từng nghe Nhất Xiển Đề là kẻ chẳng tin, chẳng nghe, chẳng thể quán sát, chẳng hiểu đặng nghĩa lý, tại sao đức Như Lai lại thuyết pháp cho họ?

Kỳ Bà tâu: “Như có người mang bệnh nặng, đêm ngủ mơ thấy lên trên điện một cột, uống chất tợ dầu mỡ và lấy thoa nơi thân, nằm trên tro ăn tro, leo lên cây khô hoặc thấy cùng khỉ vượn làm bạn, chìm dưới nước, lún trong bùn, té rơi xuống điện lầu, hoặc thấy núi cao, rừng rậm, voi, ngựa, trâu, dê, thân mặc y phục xanh, vàng, đỏ, đen, vui cười ca múa, hoặc thấy kên kên, chồn, cáo, rụng răng, rụng tóc, trần truồng, gối đầu trên mình chó, nằm trên phẩn nhơ, hoặc thấy cùng người đã chết đi đứng nằm ngồi dắt tay ăn uống, đi trong đường đầy rắn độc, hoặc mơ thấy ôm ẵm người nữ trùm tóc, y phục bằng lá Đa La, ngồi xe lừa hư gãy qua hướng chính Nam.

Người này tỉnh dậy lòng buồn rầu bệnh nơi thân càng thêm. Vì bệnh thêm nên thân thuộc sai người mời y sĩ. Người đi mời này lùn thấp tàn tật, đầu đầy bụi bặm, y phục rách nát, ngồi xe hư cũ, đến nói với y sĩ: Xin mau qua thăm bệnh.

Y sĩ tự nghĩ: Người đến mời này tướng mạo chẳng lành, bệnh chắc khó trị. Lại coi ngày, thấy nhằm ngày bệnh khó trị tức là ngày mùng bốn, mùng sáu, mùng tám, mười hai, mười bốn. Lại coi sao cũng nhằm sao khó trị, tức là hỏa tinh, khuê tinh, mão tinh, Diêm La Tinh, thấp tinh, mãn tinh. Lại coi nhằm mùa thu, mùa đông, giờ mặt trời lặn nửa đêm, giờ mặt trăng lặn, nhằm những giờ này bệnh cũng khó trị. Y Sĩ lại nghĩ rằng: Dầu tất cả đều chẳng lành, nhưng xem người bệnh nếu có phước đức thời trị được, bằng không phước đức dầu lành tốt có ích gì!

Y Sĩ liền cùng đi với người đến mời, giữa đường nghĩ rằng: Nếu người bệnh có tướng trường thọ thời trị được, nếu là tướng đoản thọ thời chẳng thể trị.

Dọc đường thấy hai đứa trẻ đánh lộn, thấy người cầm lửa tự nhiên tắt, thấy có người đốn cây, lại thấy người kéo tấm da đi trên đường, lại thấy trên đường có vật bỏ rơi, hoặc thấy người xách thùng không, hoặc thấy Sa Môn đi một mình, lại thấy cọp, sói, chồn, kên kên. Y Sĩ suy nghĩ từ người mời này đến ngày giờ thời tiết cùng những việc dọc đường đều là điềm bất tường, người bệnh chắc khó trị, nhưng nếu ta không đến thời chẳng phải Y Sĩ. Dọc đường lại nghe có tiếng khóc than người chết, tiếng sụp, bể, gãy, tiếng té ngã. Lại nghe phương Nam có tiếng kên kên, có tiếng chim Xá Lợi, tiếng chó, tiếng chuột, tiếng chồn, tiếng thỏ, tiếng heo. Y Sĩ tự nghĩ: Toàn là những điềm bệnh khó trị.

Sau khi đến nhà, thấy người bệnh lúc lạnh lúc nóng, gân xương nhức, mắt đỏ lưu lệ, tiếng lỗ tai nghe đến ngoài, cổ họng nghẹn đau, trên lưỡi nức nở, sắc mặt đen tối, cất đầu không nổi, mình khô không mồ hôi, đại tiện tiểu tiện bế tắc, cả thân sưng phù đỏ hồng dị thường, giọng nói chẳng đều, bụng đầy, nói không rõ.

Y Sĩ xem xong hỏi người khán bệnh: Từ qua đến nay ý chí người bệnh thế nào?

Người khán bệnh nói: “Thưa Y Sĩ! Người này trước kia vốn kính tin Tam Bảo, và chư Thiên, nay bỗng đổi khác không còn tin. Trước kia ưa bố thí nay thời bỏn xẻn, trước kia ăn ít nay thời quá nhiều, tính vốn hào tốt nay thời tệ ác. Tính vốn nhân từ hiếu thuận, nay thời không cung kính cha mẹ”. Y Sĩ nghe xong đến ngửi người bệnh và rờ bóp trên thân, biết người bệnh quyết định sẽ chết, nhưng chẳng nói ra, bảo người khán bệnh rằng: “Nay tôi có việc gấp ngày mai tôi sẽ trở lại, người bệnh cần dùng thứ gì cứ tha hồ chớ ngăn cản”. Dặn xong Y Sĩ trở về nhà.

Rạng ngày người bệnh đến rước, Y Sĩ bảo rằng: “ Việc tôi chưa xong thuốc cũng chế chưa rồi”.

Nếu là người trí, thấy cử chỉ của Y Sĩ thời biết rằng: Người bệnh ấy chắc chết.

Tâu Đại Vương! Đức Thế Tôn cũng như vậy, dầu biết rõ căn tính hàng Nhất Xiển Đề, nhưng đức Phật cũng vì họ mà thuyết pháp vì nếu không thuyết pháp cho họ, tất cả phàm phu sẽ cho rằng Như Lai không tâm đại từ bi, đâu nên gọi là bậc nhất thiết trí. Vì có tâm đại từ bi mới gọi là bậc nhất thiết trí, do đây nên Như Lai thuyết pháp cho hạng Nhất Xiển Đề.

Đức Như Lai gặp những người bệnh thời liền ban bố pháp dược, người bệnh nếu chẳng chịu uống đó chẳng phải là lỗi của Như Lai.

Hạng Nhất Xiển Đề chia ra làm hai: Một là hạng đặng căn lành hiện tại, hai là hạng đặng căn lành đời sau.

Đức Như Lai biết rõ hạng Nhất Xiển Đề những kẻ hiện tại có thể đặng thiện căn thời thuyết pháp cho. Những kẻ đời sau đặng thiện căn đức Phật cũng thuyết pháp cho họ, nay dầu vô ích nhưng để làm nhân cho đời sau. Do đây nên đức Như Lai vì hạng Nhất Xiển Đề mà giảng thuyết pháp yếu.

Lại có hai hạng Nhất Xiển Đề: Một là hạng lợi căn, hai là hạng trung căn. Hạng lợi căn nơi đời hiện tại có thể đặng thiện căn, hạng trung căn thời đời sau sẽ đặng.

Chư Phật không bao giờ thuyết pháp mà không lợi ích.

Ví như người sạch sẽ té trong hầm tiêu, có thiện tri thức thấy vậy xót thương liền nắm tóc kéo ra khỏi hầm. Cũng vậy, chư Phật thấy chúng sinh đọa trong ba đường ác nên phương tiện cứu tế làm cho đặng thoát khỏi. Do đây nên đức Như Lai vì hạng Nhất Xiển Đề mà thuyết pháp.

Vua bảo Kỳ Bà: “Nếu đức Như Lai thật có những điều như vậy, rạng ngày sẽ chọn ngày lành giờ tốt rồi chúng ta sẽ đến gặp Phật.

Kỳ Bà tâu: Trong giáo pháp của đức Như Lai không có chọn lựa ngày lành giờ tốt. Tâu Đại vương như người bệnh nặng đâu nên chọn ngày giờ tốt xấu, chỉ nên gấp cầu lương y. Nay Đại Vương bệnh nặng phải gấp cầu Phật, chẳng nên chờ chọn ngày lành giờ tốt.

Tâu Đại Vương! Như lửa chiên đàn cùng lửa y lan, tướng lửa cháy hai thứ không khác nhau. Cũng vậy, ngày tốt, ngày xấu, nếu đến chỗ Phật đều được diệt tội. Mong Đại Vương giờ đây nên gấp qua gặp Phật”.

Vua A Xà Thế liền bảo cận thần Kiết Tường: “Nay ta muốn đến chỗ đức Phật, khanh mau sắm sửa đồ cúng dàng”.

Vua A Xà Thế cùng Phu nhân xa giá một muôn hai ngàn cỗ, voi lớn năm ngàn thớt, trên mỗi thớt voi đều chở ba người mang cầm phan lọng, hoa hương, kỹ nhạc, nhiều thứ đồ cúng dàng, dắt theo mười tám muôn kỵ mã. Nhân dân trong nước Ma Dà Đà năm mươi tám muôn người đồng đi theo vua.

Lúc bấy giờ nơi thành Câu Thi Na, đại chúng tựu hội tất cả mười hai do tuần, mọi người đều thấy vua A Xà Thế cùng quân dân từ xa đi đến.

Đức Phật bảo đại chúng: “Nhân duyên gần với vô thượng Bồ Đề của tất cả chúng sinh không gì trước hơn bạn lành. Vì vua A Xà Thế nếu chẳng nghe lời Kỳ Bà, ngày mùng bảy tháng tới quyết định phải chết đọa địa ngục A tỳ.

Vua A Xà Thế lúc đi dọc đường được biết tin vua Tỳ Lưu Ly ngồi thuyền vào biển bị lửa cháy mà chết. Tỳ Kheo Cù Ca Ly, đất nứt, thân sống sa vào địa ngục A Tỳ. Còn Tu Na Sát Đa gây tạo những tội ác đến ra mắt Phật các tội đều đặng tiêu trừ. Vua nghe những tin này nói với Kỳ Bà rằng: “Nay ta dầu được nghe những tin ấy nhưng còn chưa chắc. Khanh đến ngồi chung một thớt voi với ta. Giả sử ta bị đọa địa ngục trông mong khanh nắm giữ ta chớ để ta bị đọa. Vì ngày trước ta từng nghe những người đắc đạo chẳng vào địa ngục”.

Phật bảo đại chúng: “Vua A Xà Thế còn lòng nghi, nay Phật sẽ làm cho vua được tâm quyết định”.

Trong Pháp hội có một vị Bồ Tát hiệu là Trì Nhất Thiết bạch Phật rằng: Trước kia Phật nói tất cả pháp đều không có tướng nhất định, sắc không tướng nhất định, nhẫn đến Niết Bàn cũng không tướng nhất định. Tại sao hôm nay nói rằng vì vua A Xà Thế

Làm cho được tâm quyết định?

Phật nói: Lành thay! Lành thay! Này Thiện nam tử! Nay Phật sẽ làm cho vua A Xà Thế có tâm quyết định, vì nếu tâm nghi ngờ của vua có thể phá hoại được, nên biết rằng tâm này là không quyết định. Nếu tâm của vua là quyết định, thời tội nghịch của vua làm sao tiêu tan được. Vì không quyết định nên có thể tiêu trừ tội nghiệp.

Vua A Xà Thế đến rừng Ta La Song Thọ ngước lên thấy đức Như Lai đủ ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp, dường như tòa núi vàng ròng.

Đức Thế Tôn cất tiếng phạm âm chào vua: “Đại Vương!”

Lúc đó vua A Xà Thế nhìn ngó hai bên tự nghĩ rằng: Không rõ ai là Đại Vương trong đại chúng này. Ta là người nhiều tội lại không phước đức, đức Như Lai chẳng lẽ gọi ta là Đại Vương!

Đức Như Lai lại lên tiếng gọi: “Đại Vương A Xà Thế!”

Vua nghe dứt lời trong lòng rất vui mừng nghĩ rằng: Nay đức Như Lai chiếu cố đến ta rõ là đức Như Lai có lòng đại bi bình đẳng đối với tất cả chúng sinh.

Vua bạch Phật rằng: “Thế Tôn nay lòng tôi không còn nghi ngờ quyết định biết rằng đức Như Lai bậc Đại Sư Vô Thượng của tất cả chúng sinh.

Ca Diếp Bồ Tát nói với Trì Nhất Thiết Bồ Tát: “Đức Như Lai đã làm cho vua A Xà Thế được tâm quyết định.

Vua A Xà Thế bạch Phật: Thế Tôn! Giả sử hôm nay tôi được ngồi chung ăn uống với Phạm Vương, Đế Thích cũng chẳng vui mừng bằng một lời kêu gọi của đức Như Lai.

Vua liền đem những phan lọng hoa hương kỹ nhạc dâng lên Phật, đỉnh lễ chân Phật đi nhiễu bên hữu ba vòng, rồi ngồi qua một phía. Phật nói: “Này Đại Vương: Nay Phật sẽ vì nhà vua mà nói pháp yếu. Nhà vua nên hết lòng lóng nghe!

Hạng phàm phu cần phải chuyên tâm quán sát nơi thân có hai mươi việc: Một là trong thân của ta đây không có công đức vô lậu, hai là không căn lành, ba là chưa đặng điều thuận, bốn là sa rớt hầm sâu không chỗ nào chẳng đáng sợ, năm là dùng phương tiện gì để thấy Phật tính, sáu là tu thiền định thế nào để được thấy Phật tính, bảy là sinh tử khổ luôn không có thường không ngã không tịnh, tám là khó thoát khỏi tám nạn, chín là thường bị oan gia theo dỏi, mười là không có một pháp gì ngăn được những hữu lậu, mười một là chưa thoát khỏi ba đường ác, mười hai là đầy đủ những ác kiến, mười ba là chưa qua khỏi bờ ngũ nghịch, mười bốn là chưa qua khỏi dòng sinh tử không bờ, mười lăm là chẳng tạo nghiệp lành chẳng được quả báo lành , mười sáu là không có ta làm mà người khác chịu quả, mười bảy là chẳng gây nhân vui thời trọn không quả vui, mười tám là đã tạo nghiệp thời quả báo trọn chẳng mất, mười chín là do vô minh mà sinh cũng do vô minh mà chết, hai mươi là quá khứ vị lai và hiện tại thường buông lung phóng dật. Này Đại Vương! Người phàm phu nên quán sát thân này có hai mươi điều như vậy. Do quán sát này nên chẳng ưa thích sinh tử. Nếu chẳng ưa thích sinh tử thời được chỉ quán. Theo thứ tự quán tướng sinh, trụ, diệt nơi tâm. Quán định, huệ, tinh tấn, trì giới cũng như vậy. Quán tướng sinh trụ diệt rồi biết rõ tâm tướng nhẫn đến giới tướng thời trọn chẳng làm ác, không có sợ chết cũng không sợ ba ác đạo. Nếu chẳng chuyên tâm quán sát hai mươi điều như vậy thời tâm buông lung phóng dật không việc ác nào chẳng làm.

Vua thưa: “Thế Tôn! Như tôi hiểu nghĩa nơi lời Phật dạy: Từ trước tôi chưa từng quán sát hai mươi điều ấy, nên gây tạo những tội ác. Do đó nên sợ chết và sợ ba ác đạo.

Bạch Thế Tôn! Tôi tự chuốc họa tạo tội ác lớn: Vua cha vô tội, tôi lại làm hại. Đối với hai mươi điều này tôi dầu có quán sát hay không quán sát quyết định sẽ bị đọa địa ngục A Tỳ.

Phật nói: “Này Đại Vương! Tất cả pháp, tính tướng của nó đều vô thường không có quyết định. Sao nhà vua lại nói quyết định sẽ đọa địa ngục A Tỳ?

Vua thưa: “Thế Tôn! Nếu tất cả pháp không tướng nhất định, thời tội giết cha của tôi cũng sẽ không nhất định. Nếu tội giết hại là nhất định thời tất cả pháp chẳng phải là nhất định.

Phật nói: “Này Đại Vương! Lành thay! Lành thay! Chư Phật nói tất cả pháp đều không tướng nhất định. Nhà vua lại có thể rõ biết tội giết hại cũng chẳng nhất định.

Này Đại Vương! Như lời nhà vua nói: Vua cha vô tội lại làm hại. Gì là cha? Chỉ ở nơi danh từ giả, năm ấm chúng sinh mà vọng tưởng là cha. Trong thập nhị nhập cùng thập bát giới, cái gì là cha? Nếu sắc ấm là cha thời bốn ấm kia lẽ ra không phải. Nếu bốn ấm là cha thời sắc ấm cũng lẽ ra không phải. Nếu sắc ấm cùng phi sắc hiệp lại làm cha thời không đúng lý, vì tính của sắc cùng phi sắc vốn không hiệp.

Này Đại Vương! Chúng sinh phàm phu đối với sắc ấm này vọng tưởng là cha. Sắc ấm như vậy cũng không thể hại được. Vì sắc ấm có mười thứ, trong mười thứ này riêng sắc là có thể thấy có thể nắm lấy, có thể cân, có thể lường, có thể trói, có thể kéo. Dầu có thế thấy có thể trói, nhưng tính của sắc vẫn chẳng trụ. Vì chẳng trụ nên không thể thấy được, cũng không thể nắm cầm cân lường kéo dắt cột trói. Sắc tướng đã như vậy thời thế nào giết hại được. Nếu sắc là cha có thể giết hại mắc phải tội báo, thời chín thứ kia lẽ ra không phải là cha. Nếu chín thứ chẳng phải là cha thời lẽ ra không mắc tội.

Này Đại Vương! Sắc có ba thứ: Quá khứ vị lai và hiện tại. Quá khứ và hiện tại thời không thể giết hại. Vì quá khứ đã qua rồi, hiện tại lại niệm niệm diệt. Chỉ vì ngăn vị lai không sinh nên gọi là giết. Một thứ sắc như vậy, hoặc có giết được, hoặc chẳng giết được. Chẳng giết thời sắc chẳng nhất định. Nếu sắc chẳng nhất định thời giết cũng chẳng nhất định. Vì giết chẳng nhất định nên quả báo cũng chẳng nhất định. Sao nhà vua lại nói quyết định đọa địa ngục? Này Đại Vương! Tội nghiệp của tất cả chúng sinh tạo ra có hai thứ: Một là tội khinh, hai là tội trọng. Nếu tâm và khẩu gây tạo thời gọi là tội khinh, thân khẩu và tâm gây tạo thời gọi là tội trọng. Tâm nghĩ miệng nói mà thân chẳng làm thời mắc quả báo nhẹ. Ngày trước Đại Vương chẳng bảo giết, chỉ nói chặt chân. Đại Vương nếu truyền lệnh lập tức chém đầu vua cha, thị thần liền chém, còn chẳng mắc tội, huống là Đại Vương chẳng truyền lệnh. Nếu Đại Vương mắc tội thời chư Phật lẽ ra cũng mắc tội. Vì Tiên Vương Tần Bà Ta La thường vun trồng những căn lành nơi chư Phật, do đó nên ngày nay được làm vua. Nếu chư Phật chẳng thọ sự cúng dường thời Tiên Vương chẳng có phước làm vua. Nếu Tiên Vương chẳng làm vua thời Đại Vương đâu có vì nước mà giết hại. Nếu Đại vương giết cha mà có tội, thời chư Phật chúng ta lẽ ra cũng có tội. Còn nếu chư Phật không mắc tội sao Đại Vương lại riêng mắc tội ư.

Này Đại Vương! Tiên Vương Tần Bà Ta La ngày trước có tâm ác. Đi săn nơi núi Tỳ Phú La, tìm muông thú khắp nơi không đặng chỉ gặp một Tiên nhân chứng ngũ thông, Tiên Vương giận nói bị người này nên hôm nay ta đi săn không gặp muông thú. Tiên Vương đuổi đi rồi sai quan hầu theo giết. Lúc sắp chết Tiên nhân sinh lòng oán giận, mất thần thông, thệ rằng: Ta thật vô tội, người dùng tâm khẩu giết hại ta, đời sau ta cũng dùng tâm khẩu mà hại ngươi.

Tiên Vương nghe lời ấy trong lòng ăn năn bèn cúng dàng chôn cất tử thi.

Ngày trước Tiên Vương như vậy còn được thọ báo nhẹ chẳng đọa địa ngục, huống là Đại Vương chẳng như vậy, Tiên Vương tự làm ra trở lại tự thọ lấy, sao nhà vua lại mắc phải tội giết hại.

Như nhà vua nói: Vua cha không tội. Này Đại Vương sao lại nói rằng không tội? Luận về người không nghiệp ác thời không tội báo, người có tội thời có tội báo. Tiên Vương kia nếu vô tội thời đâu có thọ báo. Tiên Vương Tần Bà Ta La trong hiện đời cũng đặng quả lành cùng quả ác. Do đây nên Tiên Vương cũng là chẳng nhất định. Do vì chẳng nhất định nên giết hại cũng chẳng nhất định, giết hại đã chẳng nhất định sao nhà vua lại nói rằng quyết định đọa địa ngục.

Này Đại vương! Chúng sinh điên cuồng có bốn hạng: Một là tham vọng mà điên cuồng, hai là bị thuốc mà điên cuồng, ba là bị bùa chú mà điên cuồng, bốn là do nghiệp duyên đời trước mà điên cuồng.

Trong hàng đệ tử Phật nếu mắc phải bốn chứng điên cuồng này, dầu tạo nhiều tội ác, ta trọn chẳng nhận người này là phạm giới. Người này tạo tội chẳng đọa ba đường ác. Lúc tâm tỉnh trở lại ta cũng chẳng gọi là phạm.

Đại Vương vì tham ngôi Quốc Vương mà nghịch hại vua cha, do tham cuồng gây tạo sao gọi mắc tội. Như người say rượu giết hại thân mẫu, lúc đã tỉnh say sinh lòng hối hận, nghiệp giết mẹ này cũng chẳng tội báo.

Đại Vương nay tham say nơi ngôi vua, chẳng phải bổn tâm làm tội nghịch đó, sao lại bảo là mắc tội.

Ví như nhà ảo thuật, nơi ngã tư đường dùng chú thuật hóa ra những thứ trai, gái, voi, ngựa, chuỗi ngọc, y phục. Người ngu cho đó là thật, người trí biết chẳng phải thật.

Cũng vậy, sự giết hại, phàm phu cho là thật, chư Phật biết là chẳng phải thật.

Ví như tiếng vang trong khe núi, người ngu cho là tiếng thật, người trí biết là chẳng phải thật, giết hại cũng như vậy, phàm phu cho là thật, chư Phật biết là chẳng phải thật.

Như có kẻ oán thù giả đến gần gũi, người ngu si nhận là thật thân thuộc, người trí rõ biết là giả trá. Giết hại cũng như vậy, phàm phu cho là thật, chư Phật biết là chẳng phải thật.

Như người soi gương tự thấy bóng mặt, người ngu cho là mặt thật, người trí rõ biết chẳng phải thật. Giết hại cũng như vậy, phàm phu cho là thật, chư Phật biết là chẳng phải thật.

Như ánh nắng gợn lúc trời nắng gắt, người ngu đứng xa thấy cho là nước, người trí rõ biết chẳng phải nước. Giết hại cũng như vậy, phàm phu cho là thật, chư Phật biết chẳng phải thật.

Như thành Càn Thát Bà, người ngu cho là thật, người trí rõ biết chẳng phải thật. Sát hại cũng như vậy, phàm phu cho là thật, chư Phật biết chẳng phải thật.

Như người ngủ mơ, thấy hưởng vui ngũ dục, người ngu cho là thật, người trí rõ biết chẳng phải thật. Giết hại cũng như vậy, phàm phu cho là thật chư Phật biết chẳng phải thật.

Này Đại Vương! Cách thức giết, nghiệp giết, người giết, quả giết, nhẫn đến giải thoát, ta dầu rõ thấu tất cả, ta vẫn không có tội. Đại Vương dầu biết giết hại, nhưng sao lại có tội?

Ví như có người cai quản hãng rượu người này nếu không uống thời cũng chẳng say. Lại như người biết lửa cũng chẳng bị đốt cháy. Đại Vương cũng như vậy, dầu biết giết hại nhưng sao lại có tội?

Này Đại Vương! Có những chúng sinh lúc mặt trời mọc tạo nhiều tội, lúc mặt trăng mọc lại đi trộm cướp, lúc mặt trời mặt trăng chẳng mọc thời chẳng làm việc ác, dầu nhân mặt trời mặt trăng khiến người đó làm ác, nhưng mặt trời mặt trăng thật không mắc tội. Sát hại cũng như vậy, dầu nhân nơi Đại Vương nhưng Đại Vương thật không mắc tội.

Như trong cung vua, thường truyền lệnh làm thịt dê, lòng vua vốn không nghi sợ , tại sao ở nơi vua cha riêng sinh lòng sợ, dầu là người cùng cầm súc có tôn ty sai khác, nhưng qúi sinh mạng cũng sợ chết không khác nhau. Cớ sao đối với loài dê lòng khinh không sợ, còn nói vua cha lòng trọng lo khổ.

Người đời là tôi tớ của tham ái, bị tham ái sai khiến mà làm việc giết hại, giả sử có quả báo thời là tội của tham ái, Đại Vương bị sai sử thời có tội gì.

Như Niết Bàn chẳng phải có chẳng phải không mà cũng là có. Sát hại cũng như vậy, dầu chẳng phải có chẳng phải không mà cũng là có. Người tàm quý thời là chẳng phải có, người không tàm quý thời là chẳng phảikhông, người thọ quả báo thời gọi là có. Người chấp không thời là chẳng phải có, người chấp có thời là chẳng phải không, người có chấp cũng gọi là có. Vì người có chấp có thời mắc quả báo, người không chấp có thời không mắc quả báo. Người chấp thường thời là chẳng phải có, người không chấp thường thời là chẳng phải không, người có thường kiến thời chẳng đặng gọi là không, vì người có thường kiến thời có nghiệp quả ác. Nên nghĩa này dầu chẳng phải có chẳng phải không, mà cũng là có.

Này Đại Vương! Xét về chúng sinh gọi là hơi thở ra vào, vì làm dứt hơi thở ra vào cho nên gọi là giết hại. Chư Phật thuận theo thế tục cho nên cũng nói là giết hại !

Này Đại Vương! Sắc uẩn là vô thường, nhân duyên của sắc cũng là vô thường, đã từ nhân vô thường mà sinh, thời sắc uẩn sao lại là thường, nhẫn đến thức ấm cũng như vậy. Do vô thường nên khổ, do khổ nên không, do không nên vô ngã. Nếu khổ là vô thường, khổ, không vô ngã thời món nào giết hại? Giết hại vô thường đặng Niết Bàn thường, giết hại khổ đặng lạc, giết hại không đặng chân thật, giết hại vô ngã đặng chân ngã.

Này Đại Vương! Nếu giết vô thường, khổ, không, vô ngã thời cùng với Phật đồng. Phật cũng giết vô thường, khổ, không, vô ngã chẳng bị đọa vào địa ngục, Đại Vương sao lại bị đọa?

Lúc đó vua A Xà Thế đúng theo lời Phật dạy quán sát sắc ấm nhẫn đến quán sát thức ấm. Vua quán sát như vậy rồi liền bạch Phật: “Thế Tôn! Nay tôi mới biết sắc là vô thường nhẫn đến thức là vô thường. Trước kia nếu tôi biết được như vậy thời chẳng gây tạo tội nghịch.

Bạch Thế Tôn! Tôi từng nghe chư Phật là cha mẹ của chúng sinh. Dầu nghe như vậy nhưng chưa có lòng tin chắc. Nay tôi mới tin quyết định.

Bạch Thế Tôn! Tôi cũng từng nghe núi Tu Di do bốn chất báu hiệp thành, là vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Nếu có loài chim đậu chỗ nào trên núi, màu chim liền đồng với màu núi, dầu nghe như vậy tôi cũng chẳng tin chắc. Nay tôi đến trong pháp hội của Phật liền được đồng màu sắc, nghĩa là tôi rõ biết các pháp vô thường, khổ, không, vô ngã.

Bạch Thế Tôn! Tôi thấy từ hột y lan mọc lên cây y lan chẳng thấy hột y lan mọc lên cây chiên đàn. Nay tôi mới được thấy từ hộy y lan mọc lên cây chiên đàn. Hột y lan chính là thân tôi, cây chiên đàn chính là tâm vô căn tín của tôi. Vô căn chính là từ trước tôi chẳng biết cung kính Như Lai, chẳng tin chính pháp cùng tăng chúng, đây gọi là vô căn.

Bạch Thế Tôn! Nếu tôi chẳng gặp đức Như Lai sẽ phải thọ vô lượng khổ nơi đại địa ngục trong vô lượng vô số kiếp. Nay tôi được gặp Phật trọn nên công đức, phá hoại tâm ác phiền não của chúng sinh.

Phật nói: “Lành thay! Lành thay! Này Đại Vương! Nay Phật biết nhà vua chắc chắn có thể phá hoại tâm ác của chúng sinh”.

Bạch Thế Tôn! Nếu tôi thật có thể phá hoại tâm ác của chúng sinh, thời tôi thường ở A Tỳ địa ngục trong vô lượng kiếp vì chúng sinh chịu mọi sự khổ não tôi cũng chẳng lấy làm khổ.

Lúc đó vô lượng nhân dân nước Ma Dà Đà đều phát tâm vô thượng Bồ Đề. Nhờ sự phát tâm của nhân dân, tội nặng của vua A Xà Thế liền nhẹ bớt.

Nhà vua cùng phu nhân các thể nữ đồng phát tâm vô thượng Bồ Đề.

Vua A Xà Thế bảo Kỳ Bà rằng: “Nay ta chưa chết đã đặng thân trời, bỏ mạng ngắn đặng mạng trường thọ, bỏ thân vô thường đặng thân chân thường. Làm cho các chúng sinh phát tâm vô thượng Bồ Đề chính là thân trời, mạng trường thọ, thân chân thường, cũng chính là đệ tử của tất cả chư Phật.

Nói xong, nhà vua bèn đem các thứ tràng báu, phan lọng báu, hương hoa, chuỗi ngọc, kỹ nhạc cúng dường đức Phật.

Cúng dường xong nhà vua lại nói kệ tán thán:

Lời chân thật rất vi diệu,

Khéo léo nơi câu cùng nghĩa.

Tạng pháp rất sâu bí mật,

Vì chúng sinh nên hiển bày.

Bao nhiêu lời dạy rộng rãi,

Vì chúng sinh nên nói lược,

Đầy đủ những lời như vậy.

Khéo chữa được bệnh chúng sinh.

Nếu có các hàng chúng sinh,

Đặng nghe lời dạy của Phật.

Có lòng tin hoặc chẳng tin.

Quyết định biết là lời Phật.

Lời chư Phật thường dịu dàng.

Vì chúng sinh nên nói thô.

Lời thô cùng lời dịu dàng,

Đều về đến đệ nhất nghĩa.

Do cớ này nên hôm nay,

Tôi quy y đức Thế Tôn.

Như lời bình đẳng nhất vị.

Dường như nước trong biển cả,

Đây gọi là đệ nhất nghĩa,

Nên không có lời vô nghĩa.

Hôm nay đức Như Lai nói,

Vô lượng vô số pháp yếu.

Nam nữ già trẻ được nghe.

Đồng thấy đặng đệ nhất nghĩa.

Không có nhân cũng không quả,

Không có sinh và không diệt,

Đây gọi là Đại Niết Bàn,

Người nghe phá kiết sử.

Đức Như Lai vì tất cả

Thường làm cha cùng mẹ lành,

Nên biết các hàng chúng sinh,

Đều là con của Như Lai.

Đức Thế Tôn đại từ bi,

Vì chúng sinh nên khổ hạnh,

Như người bị ma quỷ dựa,

Cuồng loạn tạo nhiều tội ác.

Nay tôi đặng thấy Như Lai,

Ba nghiệp đều được lành tốt,

Nguyện đem những công đức này,

Hồi hướng Phật đạo vô thượng.

Hôm nay chỗ tôi cúng dường,

Đức Phật pháp và chúng Tăng.

Nguyện đem những công đức này,

Tam Bảo thường ở thế gian.

Ngày nay chỗ tôi sẽ đặng,

Tất cả vô lượng công đức,

Nguyện dùng đây đễ phá hoại,

Bốn thứ ma của chúng sinh.

Ngày trước tôi gặp bạn ác,

Gây tạo tội nghiệp ba đời,

Nay đối trước Phật sám hối,

Nguyện sau này chẳng lại phạm.

Cầu cho tất cả chúng sinh,

Đều phát tâm đại Bồ Đề,

Chuyên tâm thường siêng nghĩ nhớ,

Tất cả chư Phật mười phương.

Lại nguyện tất cả chúng sinh.

Phá hẳn những giặc phiền não,

Được thấy Phật tính rõ ràng.

Như Ngài Văn Thù Bồ Tát.

Đức Thế Tôn khen vua A Xà Thế: “Lành thay! Lành thay! Nếu có người phát được tâm vô thượng Bồ Đề, phải biết người này trang nghiêm chư Phật cùng đại chúng.

Này Đại Vương! Thuở xưa nhà vua ở trước Đức Phật Tỳ Bà Thi đã phát tâm vô thượng Bồ Đề, từ đó đến ngày nay chưa từng bị đọa địa ngục, nên biết tâm Bồ Đề có vô lượng quả báo lành như thế.

Này Đại Vương! Từ nay về sau nhà vua phải thường siêng tu tâm Bồ Đề. Vì tu tâm Bồ Đề sẽ tiêu diệt được vô lượng tội ác”.

Vua A Xà Thế cùng nhân dân nước Ma Dà Đà đi nhiễu Phật ba vòng, lễ từ trở về cung.

Phẩm Thiên Hạnh như trong kinh Tạp Hoa đã nói.

 

 


 

Viết bình luận

Chúc mừng năm mới
Copyright © 2015 daibaothapmandalataythien.org. All Rights Reserved.
Xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Email: daibaothapmandalataythien@gmail.com

Đăng ký nhận tin mới qua email
Số lượt truy cập: 5777521
Số người trực tuyến: