Thiền quán về khổ trong 6 đạo luân hồi
Chúng ta tư duy về nghiệp, hay vô minh nghiệp chính là nhân và khổ là quả. Do tham, sân, si chúng ta tạo nên thiện nghiệp và ác nghiệp, và nhân của thiện nghiệp và ác nghiệp lại là nhân của 6 đạo luân hồi. Nhiều người hỏi rằng ai tạo nên luân hồi, có phải là một vị Trời, vị Đế thích, hay là Phật tạo nên cõi luân hồi này chăng? Chính mỗi chúng ta góp lại cái gọi là cộng nghiệp và tạo nên cõi luân hồi này. Trong giáo lý của Đức Phật chỉ rõ luân hồi sinh tử là do mỗi con người hay chính mỗi chúng sinh tự tạo nên. Sau đó cộng nghiệp của vô số chúng sinh đang trôi lăn tạo ra cõi luân hồi sinh tử và chịu biết bao khổ đau. Khi hiểu biết như vậy, chúng ta mới có chính kiến rằng không ai tạo nên luân hồi ngoài chính bản thân mình:
Chúng sinh nơi Địa ngục
Chịu cực hình thiêu đốt
Ngã quỷ đói hành hạ.
Bàng sinh ăn lẫn nhau
Người chịu khổ đoản mạng
Atula tranh đấu
Ganh tỵ suốt đêm ngày
Chư thiên khổ đau ấy
Năm tướng suy xuất hiện
Cõi luân hồi vĩnh viễn
Chẳng an vui bao giờ.
Đức Phật dạy rằng chúng ta phải thiền quán về nỗi khổ trong sáo đạo luân hồi trước khi quy y Tam bảo. Nếu chúng ta không chuẩn bị kỹ những vấn đề này thì cho dù bạn có thể nhận mình là một Phật tử hay một hành giả chuyên nghiệp thì việc thực hành tu tập của bạn không có ý nghĩa gì cả. Vì thực tế cuộc sống của bạn không hề thay đổi theo chiều hướng tốt lên.
Thực hành thiền quán về khổ trong sáu đạo luận hồi giúp chúng ta mở rộng lòng mình, biết cảm thông, biết chia sẻ, biết yêu thương các chúng sinh đang phải chịu đau khổ. Trong kinh thường nói mục đích quán khổ là để phát tâm bồ đề với tất cả chúng sinh. Đây là mục đích đầu tiên trong việc quán khổ.
Mục đích thứ hai của pháp quán này là giúp chúng ta không sợ kiếp luân hồi. Hành xử của chúng ta, hoặc hoạt động của chúng ta trong đời sống hàng ngày thể hiện cách chúng ta đang bám chấp vào kiếp luân hồi và lúc chết, nếu Đức Phật có đến tiếp dẫn thì chúng ta cũng không muốn đi. Vì vậy quán khổ như vậy để chúng ta phát tâm xả ly, không bám chấp trong kiếp luân hồi. Nếu chúng ta biết rằng những điều mang tính thế tục đó là giả tạm trong đời sống luân hồi thì chắc chắn thì chúng ta sẽ không mong cầu nữa. Do vậy, quán được bản chất của khổ đau giúp chúng ta có chính kiến hơn và biết nhậm vận tìm cho mình những điều có ý nghĩa nhất trong đời sống thế gian.
Kinh Tứ niệm xứ (Smrti Upasthana) dạy rằng: “Sự đau đớn trong tám địa ngục hỏa thiêu và tám địa ngục hàn băng vượt ngoài sức nghĩ bàn; Ngã quỷ bị đói khát hành hạ; Súc sinh chịu cái khổ bị ăn tươi nuốt sống hoặc phải chịu cảnh nô lệ; loài Người chịu cái khổ của sinh, già, bệnh, chết; cõi Trời chịu cái khổ của sự chết, thoái chuyển và đọa vào ác đạo”. Nói tóm lại, không chỉ những khổ đau đầy rẫy các cõi luân hồi mà ngay cả những hiện tướng hạnh phúc và bình an ở đó cuối cùng cũng kết thúc bằng khổ đau. Vì vậy, hành giả cần phải nỗ lực tinh tiến tu tập để thoát luân hồi sinh tử. Bồ Tát Long Thọ dạy rằng: “Cõi luân hồi là cảnh giới của Trời, Atula, Người, Địa ngục, Ngã quỷ, Súc sinh, nơi bị nghiệp lực chi phối xoay vần luân chuyển. Phải hiểu rõ rằng tái sinh vào cõi luân hồi sẽ phải chịu trăm ngàn khổ đau”.
Cụ thể, bạn hãy quán niệm lần lượt như sau:
1. Khổ đau trong các cõi thấp
Thứ nhất là nỗi khổ trong cõi Địa ngục
Trong Địa ngục nóng, bạn bị thiêu đốt suốt ngày đêm bởi những ngọn lửa lớn ngụt trời, thân thể rực cháy như một hòn than trong bếp lò, bạn đau đớn cùng cực, gào hét không ra tiếng. Không những thế, do nghiệp cảm ra, bạn cùng những tội nhân khác còn đánh đập lẫn nhau chết đi sống lại hàng vạn lần, bị thiêu đốt, hay giam giữ trong hai ngôi nhà lửa lồng vào nhau mà không thể thoát ra,…Trong các địa ngục này, nỗi khổ đau trong Địa ngục Vô gián là kinh hoàng nhất.
Trong địa ngục nóng (nóng như nước đồng thiêu mình) đuợc bố trí thành 8 tầng. Mỗi tầng có một địa ngục chính ở giữa và 16 địa ngục phụ bao quanh. Tầng cao nhất là 500 năm tuổi và các tiểu địa ngục cũng 500 năm tuổi. Như vậy một tầng địa ngục mà chúng ta chịu nhẹ nhất là 8.500 năm, mà một ngày một đêm cuả địa ngục bằng 500 năm của cõi trần. Địa ngục tầng thứ hai là 8.800 năm và cứ thế tăng tiếp đến địa ngục cuối cùng là tuổi bằng một tiểu kiếp.
Do vậy, trong Kinh có nói, thời gian ở cõi người được tính là ngắn ngủi như điện ảnh, hữu hoàn vô vô. “Điện ảnh” có nghĩa là như một tia chớp so với ở địa ngục. Đời mình cũng được tám mươi năm nếu không bị tai nạn gì, ai trường thọ thì có thể là đến chín mươi năm nhưng tám mươi năm hay chín mươi năm so với những kiếp trường trong địa ngục thì quả là quá ngắn ngủi.
Tiếp đến, bạn quán chiếu về Địa ngục lạnh, nơi có những ngọn núi tuyết phủ kín, âm u lạnh giá. Trời tối đen đến nỗi bạn không thể thấy được những chuyển động của cánh tay mình. Mặt đất là một cánh đồng băng, một cơn bão hoành hành ở trên cao và cuồng phong nhức buốt. Không có lửa, mặt trời, y phục hay bất kỳ cách nào để bạn sưởi ấm. Da thịt bạn nứt nẻ như thửa ruộng hạn hán, và bạn lạnh đến nỗi bị đóng băng không thể di chuyển. Mỗi giọt máu rơi xuống từ vết nứt nẻ trên thân thể vẫn gắn liền với ý thức của bạn nên khi nó đông cứng lại và nứt ra vì lạnh, bạn cũng gánh chịu trọn vẹn nỗi đau khổ tột cùng đó. Trong quan kiến Phật giáo, có tám địa ngục như thế, lần lượt mỗi địa ngục sau lại lạnh hơn địa ngục trước.
Thứ hai là nỗi khổ của Ngã quỷ
Do ác nghiệp keo sẻn, trộm cắp đã tạo, bạn có thể tái sinh làm loài quỷ đói với hình thù xấu xí, bụng to như cái trống, cổ nhỏ như cây kim, ăn uống toàn những đồ nhơ bẩn, hoặc bị đói cả ngàn năm không có gì để ăn. Hãy nghĩ đến cơn đói của bạn, thông thường, bạn không thể chịu được cảm giác cồn cào đó mà lập tức phải đi kiếm ngay một cái gì đó để lấp đầy bao tử. Vậy mà Ngã quỷ phải chịu đựng nỗi khổ đói khát gấp bội lần như thế trong hàng nghìn năm.
Có 36 loài quỷ hay còn gọi có 36 loại cô hồn thì có 36 kiểu thức ăn khác nhau. Tùy theo những nghiệp tạo khác nhau mà mỗi loài quỷ có những thức ăn khác nhau. Quỷ đói hay còn gọi pháp sư thành quỷ, chuyên giảng pháp sai hay vì lợi nên giảng pháp sai, khi đọa làm ngã quỷ. Chỉ khi nào có người thuyết pháp mới được no. Có một câu chuyện có thật viết về kiếp quỷ, đó là câu chuyện "Kỵ sĩ không đầu". Có một ông lái đò sinh được một người con bị câm và điếc. Một hôm, như thường lệ ông dậy sớm chuẩn bị đò đưa người qua sông. Khi ông đang chuẩn bị đò thì chợt thấy có một người kỵ sĩ phi ngựa tiến đến, trong tay người đó cầm chiếc đầu của mình, và máu tuôn chảy từ trên cổ xuống. Ông lái đò nhìn thấy cảnh đấy thì sợ quá, ngã lăn ra không nói được lời nào. Đúng lúc ấy, người con của ông lái đò từ đằng xa đi đến, ông lái đò ra hiệu cho người con chạy trốn đi nhưng ông không thể ra hiệu được. Người kỵ sĩ thấy cô con gái ấy đi đến thì hỏi cô đầu đã lìa khỏi cổ thì có thể liền lại được hay không. Cô gái tuy vừa câm vừa điếc này nhưng không sợ người kỵ sĩ. Cô vừa vuốt ve cái đầu vừa gật gật. Bỗng dưng chiếc đầu bay lên liền vào cổ người kỵ sĩ. Chính bằng lòng từ bi của cô gái câm này, chỉ một cái gật đầu của cô đã cảm thông đến loài quỷ, và có thể xóa được cái ảo tưởng úp chụp rằng họ bị mất đầu trong hàng nghìn năm trường.
Thứ ba là nỗi khổ của loài Súc sinh
Loài này phải chịu đựng năm loại khổ: nỗi khổ ăn thịt lẫn nhau, nỗi khổ do ngu si ám chướng, nỗi khổ chịu nóng lạnh, nỗi khổ chịu đói khát, nỗi khổ bị khai thác đọa đày hoặc sai làm việc nặng. Hãy tưởng tượng bạn tái sinh làm một loài thú trong tự nhiên. Cuộc sống của bạn không hề tự do như bạn nghĩ. Thực tế, các loài thú không lúc nào thảnh thơi vì phải chiến đấu sinh tồn, vừa lo kiếm ăn qua ngày vừa đề phòng bị kẻ khác ăn thịt. Nỗi khổ đói khát khi bạn không kiếm được thức ăn cũng không thua gì loài ngã quỷ.