Trang 04 | Đại Bảo Tháp Mandala Tây Thiên | Đại Bảo Tháp | Đại Bảo Tháp Tây Thiên

Trang 04

PHẨM CA DIẾP BỒ TÁT THỨ HAI MƯƠI BỐN

Trang 04
 

- Bạch Thế Tôn! Sắc ấm do phiền não sinh ra như thế nào?

Này Thiện Nam Tử! Phiền não có ba thứ: Dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Người trí phải quán sát tội lỗi của ba thứ lậu này. Vì có biết tội thời có thể xa lìa. Như y sư coi mạch biết bệnh rồi mới cho thuốc.

Như dắt người mù đến trong rừng gai rồi bỏ đó mà về, người mù này rất khó ra khỏi rừng dầu được ra khỏi nhưng thân thể phải bị trầy trụa.

Phàm phu trong đời cũng như vậy, vì không biết được tội lỗi của ba món lậu nên đi theo nó. Nếu người nào thấy được tội lỗi của ba món lậu thời có thể xa lìa. Người đã biết tội lỗi dầu có thọ quả báo nhưng quả báo cũng nhẹ nhàng.

Này Thiện Nam Tử! Có bốn hạng người: Một là lúc tạo nghiệp thời nặng, lúc thọ báo thời nhẹ, hai là lúc tạo nghiệp thời nhẹ, lúc thọ báo thời nặng, ba là lúc tạo nghiệp thời nặng, lúc thọ báo cũng nặng, bốn là lúc tạo nghiệp thời nhẹ, lúc thọ báo cũng nhẹ.

Này Thiện Nam Tử! Nếu người có thể quán sát tội lỗi của phiền não thời tạo nghiệp cùng thọ báo đều nhẹ.

Này Thiện Nam Tử! Người có trí nghĩ rằng: Ta nên xa lìa ba thứ lậu như vậy, chẳng nên gây tạo những nghiệp xấu xa như vậy, vì ngày nay ta chưa được giải thoát lục đạo. Nếu ta tu hành phải nương sức này để phá hoại các sự khổ. Suy nghĩ như vậy rồi thời tham sân si của người này kém yếu. Người này thấy phiền não của mình nhẹ nên lòng họ vui mừng, lại nghĩ rằng ta được như vầy đều do công đức tu hành, làm cho ta lìa đặng pháp ác, gần gũi pháp lành, nên hiện tại ta được thấy thánh đạo, vậy ta phải nên siêng năng tu tập thêm. Do công đức siêng năng tu hành, người này xa lìa vô lượng phiền não và thoát khỏi lục đạo luân hồi.

Do đây nên trong khế kinh Phật nói phải quán sát tất cả phiền não hữu lậu và nhân của hữu lậu. Vì người trí nếu chỉ quán hữu lậu mà chẳng quán nhân của hữu lậu thời không thể dứt các phiền não. Vì người trí quán sát hữu lậu do nhân này mà sinh, nay ta dứt nhân này thời lậu chẳng còn sinh. Như y sư trước từ nhân của bệnh thời bệnh chẳng còn. Do đây nên người trí phải trước quán sát nhân, kế đó quán sát quả báo, biết rằng từ nhân lành sinh ra quả lành, từ nhân ác sinh quả ác. Khi rõ biết quả báo rồi thời xa lìa nhân ác. Lại phải quán phiền não nhẹ hay nặng, trước lìa phiền não nặng thời phiền não nhẹ tự mất.

Này Thiện Nam tử! Người trí nếu biết phiền não, biết nhân của phiền não, biết quả báo của phiền não, biết phiền não nhẹ hay nặng, bấy giờ người này siêng năng tu hành chẳng ngừng nghỉ, chẳng hối tiếc, thường gần gũi bạn lành chí tâm nghe pháp để dứt trừ những phiền não như vậy.

Như người bệnh tự biết bệnh nhẹ có thể trị lành, nên dầu uống thuốc đắng vẫn không ăn năn. Người trí siêng tu thánh đạo thường vui mừng chẳng sầu, chẳng nghĩ, chẳng ăn năn.

Này Thiện Nam Tử! Nếu người biết được phiền não, nhân của phiền não, quả báo của phiền não, biết phiền não nhẹ nặng, vì trừ phiền não mà tu thánh đạo, người này chẳng do phiền não sinh sắc thân, cũng chẳng do phiền não sinh thọ, tưởng, hành, thức. Nếu chẳng biết được phiền não v.v… chẳng siêng tu tập, người này từ phiền não sinh thân ngũ ấm.

Này Thiện Nam Tử! Người rõ biết phiền não v.v…vì dứt trừ phiền não mà tu hành thánh đạo, đây chính là đức Như Lai do nhân duyên này nên sắc thân của Như Lai cùng thọ, tưởng, hành, thức, đều là thường trụ.

Kế chẳng biết phiền não v.v…, chẳng tu hành thánh đạo, đây là phàm phu. Do nhân duyên này nên sắc, thọ, tưởng, hành, thức của phàm phu đều là vô thường.

Này Thiện Nam Tử! Người trí trong đời: Tất cả Thánh nhân, Bồ Tát, chư Phật đều nói hai nghĩa trên đây, ta cũng nói hai nghĩa như vậy, do đây nên ta nói rằng chẳng tranh cãi với người trí trong đời, chẳng bị thế pháp làm nhiễm ô.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu?

Này Thiện Nam Tử! Do trong tâm có giác quán chẳng lành, nhân nơi duyên ngoài mà sinh ra dục lậu.

Ngày trước lúc ở thành Vương Xá, ta bảo A Nan rằng: Nay ông thọ lấy bài kệ tụng của cô gái này nói. Bài kệ đây là lời của chư Phật quá khứ. Do đây nên tất cả giác quán chẳng lành trong tâm cùng những nhân duyên ngoài gọi đó là dục, đây là dục lậu.

Trừ dục lậu ở cõi dục, những á pháp nơi trong cùng các nhân duyên nơi ngoài của cõi sắc và vô sắc gọi là hữu lậu.

Chẳng thể rõ biết ngã cùng ngã sở, chẳng biện biệt được trong cùng ngoài, đây gọi là vô minh lậu.

Này Thiện Nam Tử! Vô minh là cội gốc của tất cả các lậu, vì tất cả chúng sinh do vô minh nên ức tưởng chấp trước nơi ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới, đây gọi là chúng sinh, cũng gọi là tưởng đảo, tâm đảo, kiến đảo. Do nhân duyên này sinh ra tất cả các lậu. Vì thế nên trong mười hai bộ kinh, ta nói vô minh là nhân của tham sân si.

- Bạch Thế Tôn! Trước kia đức Như Lai nói rằng do chẳng khéo tư duy mà có tham, sân, si. Nay duyên cớ gì mà nói do vô minh?

Này Thiện Nam Tử! Hai pháp đây làm nhân quả lẫn nhau, tăng trưởng lẫn nhau: Chẳng khéo tư duy sinh vô minh, do vô minh nên chẳng khéo tư duy.

Này Thiện nam Tử! Những gì có thể sinh trưởng các phiền não thời đều gọi là nhân duyên của phiền não. Gần gũi những nhân duyên của phiền não như vậy thời gọi là vô minh. Chẳng khéo tư duy dụ như hột giống lên mọng: Hột giống là cận nhân, nước đất là viễn nhân. Phiền não cũng như vậy.

- Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói vô minh tức là lậu, sao lại nói rằng nhân nơi vô minh mà sinh các lậu?

Này Thiện Nam Tử! Vô minh lậu là nội vô minh. Nhân nơi vô minh sinh ra các lậu là nội ngoại nhân. Nếu nói vô minh lậu thời gọi là nội đảo: Chẳng biết vô thường, khổ, không và vô ngã. Nếu nói nhân duyên của tất cả phiền não, đây gọi là chẳng rõ biết ngoài ngã và ngã sở. Nếu nói vô minh lậu, đây gọi là vô thỉ vô chung: Từ nơi vô minh sinh ra ấm nhập giới v.v…

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là biết nhân của các lậu?

Này Thiện Nam Tử! Người trí nên quán sát rằng: Nhân duyên gì sinh ra phiền não này? Làm hạnh nghiệp gì sinh ra phiền não này? Lúc ở chung với ai sinh ra phiền não này? Ở chỗ nào sinh ra phiền não này? Quán sát việc gì sinh ra phiền não này? Thọ lãnh đồ ăn đồ dùng của ai sinh ra phiền não này? Duyên cớ gì chuyển hạ làm trung, chuyển trung làm thượng? Hạ nghiệp làm trung, trung nghiệp làm thượng?

Bồ Tát lúc quán sát như vậy thời xa lìa được nhân duyên sinh ra các lậu. Lúc quán sát như vậy những phiền não chưa sinh ngăn ngừa làm cho chẳng sinh, nhữngphiền não đã sinh thời trừ diệt được. Do đây nên trong khế kinh ta nói rằng người trí phải quán sát nhân duyên sinh ra phiền não.

- Bạch Thế Tôn! Chúng sinh có một thân làm sao có thể khởi ra các thứ phiền não?

Này Thiện Nam Tử! Như trong một cái chậu đựng nhiều thứ hột giống, lúc có nước mưa thời mỗi hột giống đều tự mọc lên. Chúng sinh cũng như vậy, thân dầu chỉ có một, do nhân duyên tham ái mà có thể sinh trưởng các thứ phiền não.

- Bạch Thế Tôn! Người trí quán sát quả báo như thế nào?

Này Thiện Nam Tử! Người trí nên quán sát nhân duyên của các lậu có thể sinh thân tam đồ, nhân duyên của các lậu được thân nhân thiên, đều là vô thường, khổ, không, vô ngã. Trong thân này có ba thứ khổ, ba thứ vô thường. Nhân duyên của các lậu này có thể làm cho chúng sinh tạo tội ngũ nghịch thọ lấy ác báo, có thể dứt mất căn lành, phạm bốn tội trọng, hủy báng Tam Bảo.

Người trí lại nên quán sát ngày nay ta đã có thân như vầy, chẳng nên sinh khởi những phiền não như vậy để khỏi mang lấy những ác quả.

- Bạch Thế Tôn! Có quả vô lậu. Lúc người trí dứt những quả báo, quả báo vô lậu này có ở trong số bị dứt đây chăng?

Những người đắc đạo có quả vô lậu. Người trí kia cầu quả vô lậu. Tại sao đức Phật nói rằng tất cả người trí nên dứt quả báo. Nếu dứt quả báo thời ngày nay làm sao có các bậc thánh nhân?

Này Thiện Nam Tử! Có lúc đức Như Lai trong nhân mà nói quả, có lúc trong quả mà nói nhân.

Như người đời nói đất sét, chính là cái bình, những sợi chỉ chính là cái áo, đây gọi là trong nhân mà nói quả.

Như người đời nói con bò chính là nước và cỏ, người chính là đồ ăn, đây là trong quả mà nói nhân. Ta cũng ở trong nhân mà nói quả như vậy. Như trong khế kinh trước kia ta từng nói rằng: Ta từ nơi tâm mà thân đến cõi Phạm Thiên, đây gọi là trong nhân mà nói quả. Lục nhập này là nghiệp quá khứ, đây gọi là trong quả mà nói nhân.

Này Thiện Nam Tử! Thật ra tất cả thánh nhân không có quả báo vô lậu. Tất cả thánh nhân tu hành thánh đạo được quả báo chẳng còn sinh các lậu do đây nên gọi là quả báo vô lậu.

Này Thiện Nam Tử! Người trí lúc quán sát như vậy liền dứt hẳn được quả báo của phiền não. Vì dứt quả báo phiền não này mà tu tập thánh đạo: Không vô tướng và vô nguyện. Tu tập thánh đạo này có thể dứt tất cả quả báo của phiền não.

- Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sinh đều do phiền não mà có quả báo. Phiền não chính là ác. Từ phiền não ác sinh ra phiền não cũng gọi là ác. Phiền não như vậy có hai thứ: Nhân và quả. Vì nhân ác nên quả ác, vì quả ác nên nhân ác.

Như trái nhâm bà vì hột nó đắng, nên bông trái cây lá tất cả đều đắng. Như cây độc vì hột nó độc nên trái cũng độc.

Nhân là chúng sinh quả cũng chúng sinh. Nhân là phiền não quả cũng phiền não. Nhân quả phiền não chính là chúng sinh. Chúng sinh chính là nhân quả phiền não.

Nếu cứ theo nghĩa này, cớ sao đức Như Lai trước kia nói dụ núi Tuyết cũng có cỏ độc, cũng có cây thuốc hay?

Nếu nói phiền não là chúng sinh, chúng sinh là phiền não, sao Phật lại nói trong thân chúng sinh có thuốc hay?

Lành thay! Lành thay! Này Thiện Nam Tử! Vô lượng chúng sinh đều đồng nghi như vậy. Nay ông vì chúng sinh mà thưa hỏi. Ta cũng có thể giải thích để trừ nghi.

Ông nên lóng nghe khéo suy nghĩ và ghi nhớ đó.

Này Thiện Nam Tử! Núi Tuyết kia dụ cho chúng sinh, cỏ độc là nói phiền não, cây thuốc hay là chỉ cho phạm hạnh thanh tịnh.

Này Thiện Nam Tử! Nếu có chúng sinh tu tập phạm hạnh thanh tịnh như vậy, thời gọi là trong thân có thuốc hay.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào chúng sinh có phạm hạnh thanh tịnh.

Này Thiện Nam Tử! Như trong đời, từ hột sinh ra trái. Trái này có thứ sinh ra hột, có thứ chẳng sinh. Thứ có thể sinh hột thời gọi là quả tử. Thứ không thể sinh chỉ được gọi là quả chẳng đượcgọi là tử.

Tất cả chúng sinh cũng như vậy, có hai hạng: Một là có quả phiền não là nhân phiền não, hai là có quả phiền não chẳng phải nhân phiền não. Hạng sau đây gọi là phạm hạnh thanh tịnh.

Này Thiện Nam Tử! Chúng sinh quán sát thọ ấm, biết nó là cận nhân của tất cả lậu. Vì thọ ấm làm nhân duyên nên không thể dứt tuyệt tất cả các lậu, cũng không thể ra khỏi ngục tam giới. Nhân nơi thọ mà chúng sinh chấp ngã và ngã sở, sinh ra tâm đảo, tưởng đảo và kiến đảo. Do đây nên chúng sinh trước phải quán sát thọ ấm, thọ này là cận nhân của tất cả ái. Do đây nên người trí muốn dứt tham ái, trước phải quán sát thọ.

Này Thiện Nam Tử! Tất cả chúng sinh, mười hai nhân duyên chỗ gây tạo nghiệp thiện ác đều nhân nơi thọ. Do đây nên ta từng bảo A Nan rằng: Tất cả chúng sinh tạo nghiệp thiện ác đều do nơi thọ. Nên người trí trước phải quán sát thọ.

Đã quán sát thọ rồi lại phải quán sát thọ này do nhân duyên gì mà sinh? Nếu do nhân duyên sinh, thời nhân duyên đó lại từ đâu mà sinh? Nếu không nhân duyên mà sinh, thời không nhân kia cớ sao chẳng sinh không thọ?

Lại quán sát thọ này chẳng phải do Tư Tại Thiên sinh, chẳng do sĩ phu sinh, chẳng do vi trần sinh, chẳng phải thời tiết sinh, chẳng do tưởng sinh, chẳng do tính sinh, chẳng phải tự sinh, chẳng phải tha sinh, chẳng phải vô nhân sinh. Thọ này từ các duyên hòa hiệp mà sinh, duyên đây chính là ái. Trong sự hòa hiệp này chẳng phải có thọ chẳng phải không thọ. Do đây nên ta phải dứt sự hòa hiệp này. Vì dứt hòa hiệp nên chẳng sinh ra thọ.

Này Thiện Nam Tử! Người trí quán sát nhân rồi kế quán sát quả báo : Chúng sinh do nơi thọ mà thọ báo địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, nhẫn đến thọ vô lượng sự khổ não trong tam giới. Do nơi thọ mà thọ lấy sự vui hư huyễn vô thường. Do nơi thọ mà dứt căn lành. Do nơi thọ mà được giải thoát. Lúc quán sát như vậy thời chẳng làm nhân cho thọ.

Thế nào gọi là chẳng làm nhân cho thọ? Chính là phân biệt thọ: Những thọ gì có thể làm nhân cho ái? Những ái gì có thể làm nhân cho thọ?

Này Thiện Nam Tử! Nếu chúng sinh có thể quán sát rành rẽ ái nhân và thọ nhân như vậy, thời có thể dứt ngã và ngã sở.

Này Thiện Nam Tử! Nếu người nào có thể quán sát những điều như vậy, thời nên biện biệt ái cùng thọ dứt tại chỗ nào? Bèn thấy ái và thọ có chỗ diệt phần ít, do đây nên biết rằng cũng phải có diệt hoàn toàn. Bấy giờ ở nơi giải thoát người này sinh tín tâm, quán sát chỗ giải thoát này do đâu mà được. Quán sát rồi biết rõ từ bát chính đạo nên liền tu tập.

Thế nào gọi là bát chính đạo? Đạo này quán sát thọ có ba tướng: Một là khổ, hai là lạc, ba là bất khổ bất lạc. Ba tướng này đều có thể làm cho thân tâm tăng trưởng.

Nhân duyên gì mà có thể tăng trưởng? Vì xúc làm nhân duyên. Xúc này có ba : Một là vô minh xúc, hai là minh xúc, ba là phi minh phi vô minh xúc. Minh xúc đây chính là bát chính đạo. Hai xúc kia thời tăng trưởng thân tâm và ba món thọ. Do đây nên phải dứt hai món xúc này. Xúc đã dứt nên chẳng sinh ba món thọ.

Này Thiện Nam Tử! Thọ này cũng gọi là nhân cũng gọi là quả. Người trí phải quán sát cũng nhân cũng quả này: Nhân thọ sinh ra ái gọi đó là nhân. Thọ nhân nơi xúc mà sinh đây gọi là quả.

Người trí quán sát thọ như vậy rồi, kế lại quán sát ái. Quả báo của thọ gọi là ái. Quán sát ái có hai thứ Một là tạp thực, hai là vô thực.

Tạp thực ái làm nhân sinh ra già bệnh chết tất cả những cõi hữu lậu. Vô thực ái thời dứt sinh gìa bệnh chết tất cả các cõi mà tham ưa đạo vô lậu.

Lại nên nghĩ rằng: Nếu ta sinh tạp thực ái này thời không thể dứt được sinh lão bệnh tử. Nay dầu ta tham đạo vô lậu, nếu chẳng dứt thọ nhân, thời không thể được đạo quả vô lậu. Do đây nên phải dứt xúc này trước. Xúc đã dứt thời thọ tự diệt. Thọ đã diệt thời ái cũng mất theo. Đây gọi là bát chính đạo.

Này Thiện Nam Tử! Nếu có chúng sinh nào quán sát như vậy, dầu hiện tại có thân ác độc, nhưng trong đó cũng có cây thuốc hay. Như trong núi Tuyết dầu có cỏ độc nhưng cũng có cây thuốc tốt.

Những chúng sinh này dầu do phiền não mà có quả báo, những quả báo này chẳng còn lại sinh phiền não, đây gọi là phạm hạnh thanh tịnh.

Này Thiện Nam Tử! Người trí phải quán sát hai thứ thọ và ái do nhân duyên gì sinh ra? Biết do nơi tưởng mà sinh. Vì chúng sinh lúc thấy sắc cũng chẳng sinh tham. Đến lúc quán thọ cũng chẳng sinh tham. Nếu ở trong sắc mà sinh tưởng điên đảo, cho rằng sắc là thường, lạc, ngã , tịnh. Thọ là thường hằng không biến đổi. Do tưởng điên đảo này mà sinh tham, sân, si. Do đây nên người trí phải quán sát.

Và phải suy nghĩ rằng: Tất cả chúng sinh lúc chưa được chính đạo đều có tưởng điên đảo: Ở trong chẳng phải thường, lạc, ngã, tịnh mà nhận là thường, lạc, ngã, tịnh. Nơi pháp chẳng phải nam, nữ, lớn, nhỏ, ngày, đêm, năm, tháng, y phục, nhà cửa v.v… mà tưởng là nam, là nữ v.v…

Tưởng này có ba thứ: Tiểu, đại và vô lượng. Vì nhân duyên nhỏ nên sinh tưởng nhỏ. Vì nhân duyên lớn nên sinh tưởng lớn. Vì vô lượng duyên nên sinh tưởng vô lượng.

Lại có tưởng nhỏ chính là chưa nhập định, tưởng lớn là nói đã nhập định, vô lượng tưởng là nói mười nhất thiết nhập.

Lại có tưởng nhỏ là tất cả tưởng ở cõi dục, tưởng lớn là tất cả tưởng ở cõi sắc, vô lượng tưởng là tất cả tưởng ở cõi vô sắc.

Vì ba thứ tưởng này diệt nên thọ cũng tự diệt. Vì tưởng thọ diệt nên gọi là giải thoát.

- Bạch Thế Tôn! Diệt tất cả pháp gọi là giải thoát, sao đức Như Lai nói tưởng thọ diệt gọi là giải thoát?

Này Thiện Nam Tử! Như Lai có lúc nhân chúng sinh mà thuyết pháp, người nghe hiểu được pháp.

Như trước kia ta bảo Đại Ca Diếp: Lúc chúng sinh diệt thời pháp lành diệt. Hoặc có lúc ta nhân nơi pháp mà nói chúng sinh, người nghe cũng hiểu là nói chúng sinh. Như trước kia ta bảo A Nan rằng: Đức Phật cũng chẳng nói gần gũi tất cả pháp, lại cũng chẳng nói chẳng gần gũi tất cả pháp. Nếu đã gần nơi pháp mà pháp lành kém suy, pháp ác lừng thạnh, thời chẳng nên gần pháp đó. Nếu đã gần nơi pháp nào mà điều ác suy diệt, điều lành thêm lớn, thời nên gần gũi pháp đó.

Này Thiện Nam Tử! Dầu đức Như Lai nói tưởng thọ diệt, nhưng đã tổng nói dứt tất cả pháp nên dứt.

Người trí đã quán tưởng như vậy rồi, kế lại quán nhân của tưởng: Vô lượng tưởng này nhân đâu mà sinh? Biết rằng nhân xúc mà sinh. Xúc này có hai: Một là do phiền não mà có xúc, hai là do giải thoát mà có xúc. Do vô minh sinh gọi là phiền não xúc, do minh sinh gọi là giải thoát xúc. Nhân nơi phiền não xúc sinh ra đảo tưởng. Nhân nơi giải thoát xúc sinh ra bất đảo tưởng. Quán sát nhân của tưởng rồi kế lại quán sát quả báo.

- Bạch Thế Tôn! Nếu vì nhân nơi tưởng phiền não này mà sinh đảo tưởng, thời tất cả thánh nhân thiệt có đảo tưởng mà không phiền não.

Này Thiện Nam Tử! Thế nào là Thánh nhân mà có đảo tưởng?

- Bạch Thế Tôn! Tất cả Thánh nhân đối với con bò con ngựa tưởng là bò là ngựa rồi cũng nói là bò là ngựa. Đối với nam nữ lớn nhỏ nhà cửa v.v… cũng như vậy, do đây nên gọi là đảo tưởng.

Này Thiện Nam Tử! Tất cả phàm phu có hai thứ tưởng: Một là thế lưu bố tưởng, hai là chấp trước tưởng. Tất cả Thánh nhân chỉ có thế lưu bố tưởng, không có chấp trước tưởng. Tất cả phàm phu vì ác giác quán nên đối với thế lưu bố sinh ra chấp trước tưởng. Tất cả Thánh nhân vì thiện gíac quán nên đối với thế lưu bố chẳng sinh tưởng chấp trước. Do đây nên phàm phu gọi là đảo tưởng. Thánh nhân dầu biết các pháp mà chẳng gọi là đảo tưởng.

Người trí quán sát nhân của tưởng rồi kế lại quán quả báo: Ác trưởng này thọ quả nơi địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, nhân và thiên. Như ta do vì dứt ác giác quán nên vô minh xúc dứt, do đây mà tưởng dứt, vì tưởng dứt nên quả báo cũng dứt. Người trí vì dứt nhân của tưởng nên tu bát chính đạo.

Nếu có người quán sát được như vậy, thời gọi là phạm hạnh thanh tịnh.

Này Thiện Nam Tử! Như trên đây gọi là trong thân ác độc của chúng sinh mà có thuốc hay. Như trong núi Tuyết dầu có cỏ độc nhưng cũng có cây thuốc hay.

Này Thiện nam Tử! Người trí kế lại quán sát dục, tức là sắc, thinh, hương, vị, xúc. Đây là đức Như Lai ở trong nhân mà nói quả, vì từ năm trần này mà sinh ra dục, thiệt ra năm trần chẳng phải dục.

Này Thiện Nam Tử! Người ngu si vì tham cầu thọ lấy nên đối với sắc sinh ra tưởng điên đảo, đối với thanh, hương, vị, xúc cũng sinh ra tưởng điên đảo. Do đảo tưởng làm nhân duyên mà sinh ra thọ. Do đây nên trong đời nói rằng nhân đảo tưởng sinh ra mười món tưởng.

Do dục làm nhân duyên mà thọ lấy quả báo ác nơi thế gian. Đem sự ác làm hại cha mẹ, Sa Môn, Bà La Môn v.v…, chỗ chẳng nên làm ác mà cố làm chẳng tiếc thân mạng. Người trí quán sát ác tưởng này làm nhân duyên mà sinh ra dục tâm.

Quán sát nhân duyên của dục rồi kế lại quán quả báo: Dục này có nhiều quả báo ác: Địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, nhân và thiên.

Nếu những ác tưởng này đã trừ diệt được, thời vĩnh viễn chẳng sinh dục tâm này, vì không dục tâm nên chẳng sinh ác thọ, đã không ác thọ thời không ác quả, do đây nên phải dứt ác tưởng trước. Ác tưởng đã dứt thời những pháp ác khác tự nhiên đều dứt. Do cớ trên đây nên người trí vì dứt ác tưởng mà tu bát chính đạo, đây gọi là phạm hạnh thanh tịnh, cũng gọi là trong thân độc của chúng sinh có vị thuốc hay. Như trong núi Tuyết dầu có cỏ độc nhưng cũng có cây thuốc hay.

Này Thiện Nam Tử! Người trí quán dục như vậy rồi kế nên quán nghiệp. Phải suy nghĩ rằng: Bốn thứ thọ, tưởng, xúc và dục chính là phiền não. Phiền não này có thể làm sinh nghiệp mà chẳng làm thọ nghiệp. Phiền não này cùng đi với nghiệp có hai thứ: Một là làm sinh nghiệp, hai là làm tác nghiệp.

Do đây nên người trí phải quán sát nơi nghiệp. Nghiệp này có ba: Thân, khẩu và ý. Hai nghiệp thân, khẩu tên là nghiệp mà cũng gọi là nghiệp quả, ý chỉ gọi là nghiệp, vì là nhân của nghiệp nên gọi là nghiệp. Hai nghiệp thân, khẩu là nghiệp ngoài, ý gọi là nghiệp trong. Ba thứ nghiệp này đi cùng với phiền não làm thành hai thứ nghiệp: Một là sinh nghiệp, hai là thọ nghiệp.

Này Thiện Nam Tử! Chính nghiệp tức là ý, kỳ nghiệp tức là thân khẩu. Phát sinh trước gọi là ý nghiệp, từ ý nghiệp sinh ra gọi là thân khẩu nghiệp. Do đây nên ý nghiệp được gọi là chính.

Người trí đã quán nghiệp rồi kế lại quán nghiệp nhân. Nghiệp nhân đây là vô minh xúc. Do nơi vô minh xúc mà chúng sinh cầu lấy có. Nhân duyên cầu lấy có tức là ái. Nhân nơi ái mà gây tạo ba thứ nghiệp, thân, khẩu, ý.

Người trí quán nghiệp nhân rồi kế lại quán quả báo. Quả báo đây có bốn: Một là hắc hắc quả báo, hai là bạch bạch quả báo, ba là tạp tạp quả báo, bốn là bất hắc bất bạch quả báo.

Hắc hắc quả báo là lúc tạo nghiệp nhơ đục quả báo cũng nhơ đục. Bạch bạch quả báo là lúc tạo nghiệp thanh tịnh quả báo cũng thanh tịnh.

Tạp tạp quả báo là lúc tạo nghiệp tạp quả báo cũng tạp. Bất bạch bất hắc quả báo là nói vô lậu nghiệp.

- Bạch Thế Tôn Trước kia đức Như Lai nói vô lậu không có quả báo, cớ sao nay lại nói vô lậu là bất bạch bất hắc quả báo.

Này Thiện Nam Tử! Nghĩa này có hai: Một là cũng quả cũng báo, hai là chỉ quả chẳng phải báo. Hắc hắc quả báo là quả cũng là báo: Do nghiệp nhân hắc mà sinh ra nên gọi là quả, nó lại có thể làm nhân nên lại gọi là báo. Bạch bạch và tạp tạp cũng như vậy. Quả vô lậu nhân nơi hữu lậu mà sinh nên gọi là quả, nó chẳng làm nhân cho pháp khác nên chẳng gọi là báo. Do đây nên vô lậu gọi là quả mà chẳng gọi là báo.

- Bạch Thế Tôn! Nghiệp vô lậu này chẳng phải là hắc pháp, duyên cớ gì chẳng gọi nó là bạch  

Này Thiện Nam Tử! Vì vô lậu không có báo nên chẳng gọi là bạch. Vì đối trị hắc nên gọi là bạch. Nay ta nói thọ quả báo gọi là hắc bạch. Vì nghiệp vô lậu này chẳng thọ báo nên chẳng gọi là bạch mà gọi là tịch tịnh.

Nghiệp như vậy có chỗ định thọ báo, như mười pháp ác quyết định ở địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, mười nghiệp lành quyết định ở nhân, thiên.

Mười pháp ác có thượng, trung và hạ: Nghiệp thượng thọ thân địa ngục, nghiệp trung thọ thân súc sinh, nghiệp hạ thọ thân ngạ quỉ.

Mười nghiệp lành về nhân đạo có bốn hạng: Nghiệp hạ sinh Bắc Câu Lô Châu, nghiệp trung sinh Tây Ngưu Hóa Châu, nghiệp thượng sinh Đông Thắng Thần Châu, nghiệp thượng thượng sinh Diêm Phù Đề.

Người trí quán sát như vậy rồi liền nghĩ rằng: Ta phải làm thế nào dứt những quả báo ấy? Lại nghĩ rằng nhân duyên của những nghiệp này do vô minh xúc sinh ra, nếu ta dứt trừ vô minh cùng xúc, thời nghiệp quả này dứt mất chẳng còn sinh. Vì dứt trừ vô minh và xúc nên người trí tu bát chính đạo, đây gọi là phạm hạnh thanh tịnh. Cũng gọi là trong thân độc của chúng sinh có vị thuốc hay, như trong núi Tuyết dầu có cỏ độc nhưng cũng có cây thuốc.

Này Thiện Nam Tử! Người trí quán sát nghiệp và quán sát phiền não rồi, kế lại quán sát quả báo của hai thứ này: Tức là khổ. Đã biết là khổ thời có thể xa lìa tất cả sự thọ sinh.

Người trí lại quán sát phiền não làm nhân duyên sinh ra phiền não, nghiệp cũng làm nhân duyên sinh ra phiền não. Phiền não lại làm nhân duyên sinh ra nghiệp, nghiệp làm nhân duyên sinh ra khổ, khổ làm nhân duyên sinh ra phiền não, phiền não làm nhân duyên sinh ra hữu, hữu làm nhân duyên sinh ra khổ, khổ làm nhân duyên sinh ra hữu, hữu làm nhân duyên sinh ra nghiệp, nghiệp làm nhân duyên sinh ra phiền não, phiền não làm nhân duyên sinh ra khổ, khổ làm nhân duyên sinh ra nghiệp.

Này Thiện Nam Tử! Nếu ai có thể quán sát như vậy, nên biết rằng người này có thể quán sát nghiệp khổ, vì những điều quán sát như vậy chính là mười hai nhân duyên sinh tử, người này chẳng gây tạo nghiệp mới, có thể phá hoại nghiệp cũ.

Này Thiện Nam Tử! Người trí quán sát sự khổ nơi địa ngục. Quán sát nơi địa ngục nhẫn đến ba trăm ba mươi sáu sở. Mỗi địa ngục đều có các sự khổ, đều do phiền não và nghiệp sinh ra. Quán sát địa ngục rồi kế lại quán sát những sự khổ của ngạ quỉ và súc sinh. Kế lại quán sát những sự khổ của nhân gian và của chư thiên. Những sự khổ như vậy đều do nơi phiền não và nghiệp sinh ra.

Này Thiện Nam Tử! Trên các cõi Trời dầu không những sự khổ não lớn, nhưng thân thể của chư thiên mềm dịu mịn trơn, lúc năm tướng suy hiện ra họ cũng thọ lấy sự khổ lớn, như sự khổ của địa ngục.

Này Thiện Nam Tử! Người trí quán sát những sự khổ của tam giới đều do nơi phiền não và nghiệp mà sinh. Như đồ bằng đất chưa hầm thời dể bể hư. Thân thể của chúng sinh cũng như vậy, là những đồ đầy sự khổ. Như cây to bông trái sum sê bầy chim có thể làm hư hại. Như nhiều cỏ khô chút lửa cũng có thể cháy hết. Thân thể của chúng sinh bị những sự khổ làm hư hoại cũng như vậy. Người trí nếu có thể quán sát tám thứ khổ, người này có thể dứt được những sự khổ.

Này Thiện NamTử! Đã quán sát tám sự khổ rồi kế lại quán sát khổ nhân.

Khổ nhân đây là ái cùng vô minh. Có hai thứ: Một là cầu thân thể, hai là cầu của cải, hai thứ này đều là khổ, do đây nên biết ái cùng vô minh là khổ nhân. Lại có hai thứ: Một là nội, hai là ngoại. Nội có thể gây nghiệp, ngoại có thể làm tăng trưởng. Nội lại có thể gây nghiệp, ngoại làm thành nghiệp quả.

Đã dứt nội ái thời nghiệp cũng dứt, dứt được ngoại ái thời qủa cũng dứt. Nội ái có thể sinh khổ đời vị lai, ngoại ái có thể sinh khổ đời hiện tại. Do đây nên ái là khổ nhân.

Đã quán khổ nhân rồi kế lại quán sát quả báo. Quả báo của khổ chính là thủ, ái quả gọi là thủ. Nhân duyên của thủ này tức là nội ái và ngoại ái do đây có ái khổ.

Nguời trí phải quán sát ái làm nhân duyên cho thủ, thủ nhân duyên nơi ái, nếu có thể dứt ái và thủ thời chẳng tạo nghiệp thọ khổ. Do đây nên người trí vì dứt trừ ái khổ mà tu bát chính đạo. Đây gọi là phạm hạnh thanh tịnh, cũng gọi là trong thân độc của chúng sinh có vị thuốc hay. Như trong núi Tuyết dầu có cỏ độc nhưng cũng có cây thuốc.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là phạm hạnh thanh tịnh?

Này Thiện Nam Tử! Chính là tất cả pháp.

- Bạch Thế Tôn! Nghĩa của tất cả pháp chẳng nhất định. Vì đức Như Lai có lúc nói là thiện, bất thiện. Có lúc nói là tứ niệm xứ quán. Hoặc nói là thập nhị nhập. Hoặc nói là thiện tri thức. Hoặc nói là thập nhị nhân duyên. Hoặc nói là chúng sinh. Hoặc nói là chính kiến, tà kiến. Hoặc nói là mười hai bộ kinh. Hoặc nói là nhị đế.

Hôm nay đức Như Lai lại nói tất cả pháp là phạm hạnh thanh tịnh, đó là những tất cả pháp gì?

Này Thiện Nam Tử! Kinh Đại Niết Bàn vi diệu này là bảo tạng trong tất cả pháp.

Như biển cả là kho chứa những châu báu, kinh Đại Niết bàn này cũng như vậy, là bí tạng của tất cả chữ nghĩa.

Như núi Tu Di là cội gốc của các vị thuốc, kinh này cũng là cội gốc của giới Bồ Tát.

Như hư không là chỗ ở củatất cả vật, kinh nàycũng là chỗ ở của tất cả pháp lành.

Như luồng gió mạnh không gì trói buộc được. Tất cả Bồ Tát thật hành kinh này cũng chẳng bị tất cả phiền não trói buộc.

Như chất kim cương không gì phá hoại được, kinh này dầu có ngoại đạo ác tà cũng chẳng phá hoại được.

Như cát sông Hằng không ai đếm được, ý nghĩa của kinh này cũng không ai đếm được.

Kinh này là pháp tràng của Bồ Tát, như bảo tràng của Thiên Đế Thích.

Kinh này là vị thương chủ thẳng đến thành Niết Bàn, như bậc đạo sư dẫn các thương nhân thẳng đến biển cả.

Kinh này có thể làm ánh sáng pháp cho Bồ tát, như mặt trời mặt trăng có thể phá tối tăm ở thế gian.

Kinh này có thể làm vị thuốc hay cho chúng sinh mang bệnh khổ, như trong núi Tuyết có cây thuốc hay trị được các thứ bệnh. Kinh này có thể làm gậy cho Nhất Xiển Đề, như người quá yếu nhờ gậy mà đứng dậy được.

Kinh này có thể làm cầu đò cho tất cả người ác, như cây cầu là chỗ tất cả người đi qua.

Kinh này làm bóng mát cho những ai bị nóng phiền não trong hai mươi lăm cõi, như cây lọng che nắng nóng.

Kinh này là vua đại vô úy có thể phá hoại tất cả ác ma phiền não, như Sư Tử Vương hàng phục bầy thú.

Kinh này là đại thần chú có thể phá hoại tất cả ác quỉ phiền não, như chú sư trong đời có thể đuổi trừ quỉ vọng lượng.

Kinh này là mưa đá vô thượng có thể phá hoại tất cả quả báo sinh tử.

Kinh này có thể làm vị thuốc hay cho người hư con mắt giới, như thuốc An Xà Na trị lành con mắt đau.

Kinh này có thể làm chổ ở cho tất cả pháp lành, như mặt đất làm chỗ ỡ cho muôn vật.

Kinh này là gương sáng của chúng sinh phá giới, như gương sáng soi các hình tượng.

Kinh này có thể làm y phục cho người không tàm quí, như áo xiêm che đậy thân thể của người đời.

Kinh này làm của báu lớn cho người nghèo pháp lành, như Công Đức Thiên lợi ích ban sự lợi ích cho người nghèo.

Kinh này làm nước cam lộ cho chúng sinh khát ngưỡng chính pháp, như nước bát công đức làm no đủ cho người khát nước.

Kinh này làm giường pháp cho người phiền não, như người đời gặp được giừơng nằm an ổn.

Kinh này là cổ xe trân bảo, chuổi ngọc hoa hương trang nghiêm thanh tịnh của bậc sơ địa Bồ Tát nhẫn đến bậc Thập Địa Bồ Tát, hơn tất cả chỗ vui vi diệu của sáu môn Ba La Mật, như cây Ba Lợi Chất Đa La trên cung Trời Đao Lợi.

Kinh này là cây buá trí huệ cứng bén có thể chặt tất cả cây to phiền não, là dao bén có thể cắt đứt tập khí, là lực sị dũng kiện có thể trừ dẹp ma tà oán địch, là ngọn lửa trí huệ đốt củi phiền não, là tạng nhân duyên xuất sinh Bích Chi Phật, là tạng Thanh Văn sinh ra bậc Thanh Văn, là con mắt của tất cả chư Thiên, là con đường chính của mỗi người là chỗ nương của tất cả loài súc sinh, là chỗ giải thoát của ngạ quỉ, là đấng vô thượng tôn của địa ngục, là chỗ vô thượng của tất cả chúng sinh trong mười phương, là phụ mẫu của chư Phật.

Do đây nên kinh này nhiếp tất cả pháp.

Này Thiện Nam Tử! Trước kia ta nói kinh này dầu nhiếp tất cả pháp, nhưng ta nói phạm hạnh là ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Nếu rời ba mươi bảy phẩm này thời trọn chẳng được quả Thanh Văn nhẫn đến quả vô thượng Bồ Đề, cũng chẳng thấy Phật tính cùng quả Phật tính. Do đây nên phạm hạnh là ba mươi bảy phẩm trợ đạo.

Vì ba mươi bảy phẩm này tính của nó chẳng phải điên đảo, nó có thể phá hoại điên đảo; tính của nó chẳng phải ác kiến, nó có thể phá hoại ác kiến; tính của nó chẳng phải bố úy, nó có thể phá hoại bố úy; tính của nó là phạm hạnh, nó có thể làm cho chúng sinh rốt ráo thật hành phạm hạnh thanh tịnh.

- Bạch Thế Tôn! Pháp hữu lậu cũng có thể làm nhân cho pháp vô lậu, cớ sao đức Như Lai chẳng nói pháp hữu lậu là phạm hạnh thanh tịnh?

Này Thiện Nam Tử! Tất cả pháp hữu lậu là điên đảo, nên tất cả pháp hữu lậu chẳng được gọi là phạm hạnh thanh tịnh.

- Bạch Thế Tôn! Pháp thế đệ nhất là hữu lậu hay là vô lậu.

Này Thiện Nam Tử! Là hữu lậu.

- Bạch Thế Tôn! Pháp thế đệ nhất dầu là hữu lậu nhưng tính nó chẳng phải điên đảo, cớ sao chẳng gọi nó là phạm hạnh thanh tịnh?

Này Thiện Nam Tử! Pháp thế đệ nhất là nhân của pháp vô lậu, vì giống với vô lậu và hướng về vô lậu nên chẳng gọi là điên đảo. Phạm hạnh thanh tịnh phát tâm tương tục mãi đến rốt ráo. Còn pháp thế đệ nhất chỉ là một niệm, nên chẳng được gọi là phạm hạnh thanh tịnh.

- Bạch Thế Tôn! Năm thức của chúng sinh cũng là hữu lậu nhưng chẳng phải là điên đảo, lại chẳng phải là một niệm, cớ sao chẳng gọi là phạm hạnh thanh tịnh?

Này Thiện Nam Tử! Năm thức của chúng sinh dầu chẳng phải một niệm nhưng là hữu lậu lại là điên đảo. Vì thêm các lậu nên gọi là hữu lậu, thể của nó chẳng phải chân thật vì là tưởng chấp trước nên là điên đảo.

Thế nào gọi là thể của nó chẳng phải chân thật vì tưởng chấp trước nên điên đảo? Vì trong vật chẳng phải nam nữ nó sinh tưởng nam nữ, nhẫn đến nhà cửa xe cộ v.v… cũng như vậy, nên gọi là điên đảo.

Này Thiện Nam Tử! Ba mươi bảy phẩm trợ đạo tính của nó không điên đảo nên được gọi là phạm hạnh thanh tịnh.

Này Thiện Nam Tử! Nếu có Bồ Tát đối với ba mươi bảy phẩm này mà biết căn, biết nhân, biết nhiếp, biết tăng, biết chủ, biết đạo, biết thắng, biết thật và biết rốt ráo, Bồ Tát này được gọi là phạm hạnh thanh tịnh.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là biết căn, nhẫn đến biết rốt ráo?

Này Thiện Nam Tử! Bồ Tát thưa hỏi thường vì hai điều: Một là vì mình, hai là vì người. Nay ông đã biết mà vì vô lượng chúng sinh nên thưa hỏi những việc như vậy. Lành thay! Lành thay!

Này Thiện Nam tử! Căn bản của ba mươi bảy phẩm trợ đạo là dục, nhân là minh xúc, nhiếp thủ là thọ, tăng trưởng là thiện tư duy, chủ là niệm, đạo dẫn là định, thắng là trí huệ, thật là giải thoát, rốt ráo là Đại Bát Niết Bàn.

Này Thiện Nam Tử! Thiện dục là căn bản của sơ phát tâm nhẫn đến vô thượng Bồ Đề, do đây nên ta nói dục là căn bản.

Như người đời nói tất cả khổ não do ái làm căn bản. Tất cả bệnh tật do ăn cách đêm làm căn bản. Tất cả sự phán đoán do đấu tranh làm căn bản. Tất cả việc ác do hư vọng làm căn bản.

- Bạch Thế Tôn! Trong kinh này trước kia đức Như Lai nói rằng tất cả pháp lành do bất phóng dật làm căn bản. Sao nay đức Phật lại nói rằng dục là căn bản?

Này Thiện Nam Tử! Nếu luận về sinh nhân thời là thiện dục, còn liễu nhân thời là bất phóng dật. Như người đời nói rằng tất cả trái cây do hột làm nhân, hoặc có người nói hột là sinh nhân, đất là liễu nhân.

- Bạch Thế Tôn! Trong những kinh khác đức Phật từng nói rằng Phật là cội gốc của ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Nghĩa này như thế nào?

Này Thiện Nam Tử! Đức Như Lai ngày trước nói rằng chúng sinh mới biết ba mươi bảy phẩm trợ đạo thời Phật là căn bản. Nếu tự chứng đặng thời dục là căn bản.

- Bạch Thế Tôn! Sao minh xúc gọi là nhân?

Này Thiện Nam Tử! Có lúc đức Như Lai nói minh là huệ, hoặc nói minh là tín. Do tín tâm mà gần gũi bạn lành đây gọi là xúc. Do gần gũi bạn lành được nghe chính pháp, đây gọi là xúc. Do nghe chính pháp mà thân, khẩu, ý thanh tịnh, đây gọi là xúc. Do ba nghiệp thanh tịnh mà được chính mạng, đây gọi là xúc. Do chính mạng được giới căn thanh tịnh, do giới căn thanh tịnh mà thích nơi tịch tịnh, do thích tịch tịnh nên có thể tư duy hiểu biết do thiện tư duy mà được an trụ đúng pháp, do an trụ đúng pháp mà được ba mươi bảy phẩm trợ đạo, do đây có thể phá hoại vô lượng phiền não ác, đây gọi là xúc.

Này Thiện Nam Tử! Thọ gọi là nhiếp thủ, vì lúc chúng sinh cảm thọ có thể làm việc lành việc ác. Do nơi thọ mà sinh các phiền não. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo có thể phá hoại những phiền não này, nên dùng thọ làm nhiếp thủ.

Do thiện tư duy có thể phá phiền não, nên gọi là tăng trưởng. Vì siêng năng tu tập nên được ba mươi phẩm trợ đạo như vậy.

Nếu quán lực có thể phá những phiền não ác cần phải nhờ chuyên niệm, do đây nên dùng niệm làm chủ. Như trong đời tất cả binh chủng đều theo ý của chủ tướng. Ba mươi phẩm trợ đạo cũng đều theo nơi niệm chủ.

Này Thiện Nam Tử! Đã nhập chính định rồi thời ba mươi bảy phẩm trợ đạo có thể khéo phân biệt tất cả pháp tướng, nên dùng làm dẫn đạo.

Phân biệt pháp tướng này do trí huệ là tối thắng, nên dùng huệ làm thắng.

Trí huệ này rõ biết phiền não, vì năng lực của trí huệ và phiền não tiêu diệt. Như trong đời bốn binh cbhủng phá hoại óan địch, hoặc một hoặc hai người dũng kiện có công năng phá địch. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo cũng như vậy, do năng lực của trí huệ có thể phá hoại phiền não, nên lấy trí huệ làm thắng.

Này Thiện Nam Tử! Dầu do tu tập ba mươi phẩm trợ đạo mà chứng được tứ thiền thần thông an lạc nhưng cũng chẳng gọi là thật. Nếu phá hoại phiền não lúc chứng được giải thoát mới gọi là thật.

Ba mươi phẩm trợ đạo này từ khi phát tâm tu hành, dầu được thế lạc và xuất thế lạc, chứng bốn quả Sa Môn được giải thoát, cũng chẳng gọi là rốt ráo. Nếu có thể dứt trừ được những công hạnh do ba mươi bảy phẩm trợ đạo này thật hành, đây gọi là Niết Bàn, nên ta nói rốt ráo là Đại Niết Bàn.

Này Thiện Nam Tử! Lại tâm thiện ái niệm chính là dục. Do thiện ái niệm mà gần gũi bạn lành nên gọi là xúc, đây là nhân. Do gần gũi bạn lành nên gọi là thọ, đây là nhiếp thủ. Do gần bạn lành mà có thể thiện tư duy nên gọi là tăng trưởng. Do bốn pháp này có thể sinh trưởng chính đạo, dục, niệm, định và trí, đây gọi là chủ, là dẫn đạo, là tối thắng vậy.

Do ba pháp này mà được hai thứ giải thoát, do dứt trừ ái nên tâm được giải thoát, do dứt trừ vô minh nên huệ được giải thoát, đây gọi là thật.

Tâm pháp như vậy rốt ráo được quả gọi là Niết Bàn, nên Đại Niết Bàn gọi là rốt ráo.

Này Thiện Nam Tử! Lại dục chính là phát tâm xuất gia, xúc là bạch tứ yết ma, đây gọi là nhân. Nhiếp thủ chính là thọ hai thứ giới: Một là Ba La Đề Mộc Xoa giới, hai là tịnh căn giới, đây gọi là thọ, đây gọi là nhiếp thủ.

Tăng trưởng là tu tập tứ thiền. Chủ là quả Tu Đà Hoàn và quả Tư Đà Hàm. Dẵn đạo là quả A Na Hàm. Tối thắng là quả A La Hán, thật là quả Bích Chi Phật. Rốt ráo là quả vô thượng Bồ Đề.

Này Thiện Nam Tử! Lại dục gọi là thức, xúc gọi là lục nhập, nhiếp gọi là thọ, tăng trưởng gọi là vô minh, chủ gọi là danh sắc, dẫn đạo gọi là ái, thắng gọi là thủ, thật gọi là hữu, rốt ráo gọi là sinh, lão, bệnh, tử.

- Bạch Thế Tôn! Căn bản cùng nhân với Tăng, ba pháp này khác nhau thế nào?

Này Thiện Nam Tử! Căn bản tức là sơ phát tâm. Nhân là tương tợ chẳng dứt. Tăng trưởng là tương tợ dứt rồi có thể sinh tương tự.

Lại căn là tạo tác. Nhân chính là quả. Tăng trưởng là có thể dùng.

Này Thiện Nam Tử! Đời vị lai dầu có quả báo, nhưng vì chưa thọ nên gọi là nhân. Đến khi thọ thời gọi là tăng trưởng.

Lại căn là mong cầu. Được tức là nhân. Dùng được tức là tăng trưởng.

Này Thiện Nam Tử! Trong kinh này, căn là kiến đạo, nhân là tu đạo, tăng là vô học đạo. Lại căn là chính nhân, phương tiện gọi là nhân, từ chính nhân này chứng được quả báo gọi là tăng trưởng.

- Bạch Thế Tôn! Như đức Phật nói rốt ráo là Đại Niết Bàn, Đại Niết Bàn này làm thế nào chứng được?

Này Thiện Nam Tử! Hoặc Bồ Tát hoặc Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, hoặc Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di có thể tu tập mười quán tưởng, thời người này có thể được Niết bàn: Một là vô thường tưởng, hai là khổ tưởng, ba là vô ngã tưởng, bốn là yểm ly thuật tưởng, năm là nhất thiết thế gian bất khả lạc tưởng, sáu là tư tưởng, bảy là đa tội quá tưởng, tám là lý tưởng, chín là diệt tưởng, mười là vô ái tưởng. Người nào tu tập mười thứ quán tưởng như vậy thời rốt ráo quyết định được Niết Bàn. Chẳng do nơi người, tự mình có thể phân biệt thiện bất thiện v.v…, đây gọi là thật xứng nghĩa Tỳ Kheo, nhẫn đến xứng nghĩa Ưu Bà Di.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Bồ Tát nhẫn đến Ưu Bà Di tu tập vô thường tưởng?

Này Thiện Nam Tử! Có hai hạng Bồ Tát: Một là sơ phát tâm, hai là đã hành đạo.

Vô thường tưởng cũng có hai thứ: Thô và tế. Bồ Tát sơ phát tâm lúc quán vô thường tưởng, suy nghĩ rằng: Vạn vật trong đời phàm có hai loại: Nội và ngoại. Những loại thuộc về nội vật đều vô thường biến đổi. Tôi thấy lúc sinh, lúc nhỏ, lúc lớn, lúc mạnh, lúc già, lúc chết đều khác nhau, do đây nên biết những loại thuộc về nội vật đều vô thường. Lại suy nghĩ rằng tôi thấy chúng sinh hoặc có kẻ mập mạnh tươi tốt, hoặc có kẻ bệnh hoạn héo gầy, hoặc có người giàu có dư giả, hoặc thấy người nghèo cùng thiếu thốn, hoặc thấy người có vô lượng công đức, hoặc thấy người tạo vô lượng tội lỗi, do đây nên quyết định biết rằng những loại thuộc về nội vật là vô thường.

Lại suy nghĩ rằng, những vật ngoài thời kỳ hột, thời kỳ mọc mộng, lên cây ra lá trổ bông, kết trái đều chẳng đồng, lại có thứ đầy đủ, có thứ chẳng đầy đủ, do đây nên biết rằng tất cả vật ngoài quyết định là vô thường.

Đã quán sát những vật bị thấy là vô thường, kế lại là quán sát những pháp bị nghe: Tôi từng nghe chư thiên có thần thông tự tại hưởng sự vui rất vi diệu nhưng cũng có năm tướng suy, do đây nên biết rằng là vô thường. Tôi lại từng nghe thuở kiếp sơ có các chúng sinh đầy đủ công đức, thân thể sáng chói chẳng cầu mặt trời mặt trăng, vì vô thường biến đổi mà công đức hao tổn, ánh sáng tắt mất. Tôi lại nghe thuở xưa có Chuyển Luân Thánh Vương thống lãnh bốn châu thiên hạ, có đủ thất bảo thế lực tự tại dầu vậy nhưng cũng không thể tránh khỏi vô thường. Lại quán quả địa cầu, ngày xưa người ở đông đảo, có đủ cây thuốc hay, rừng cây bông trái sum sê. Ngày nay vì chúng sinh phước bạc, nên những sinh vật trên mặt đất thành hư hao. Do đây nên biết rằng tất cả vật trong thân ngoài cảnh đều vô thường. Đây gọi là tướng vô thường thô.

Đã quán tưởng tướng thô rồi, kế lại quán sát tướng vô thường tế.

Bồ Tát quán sát tất cả vật trong ngoài, nhẫn đến vi trần, tại thời kỳ vị lai đã là vô thường, vì tất cả đều có đủ tướng phá hoại vậy. Nếu sắc uẩn vị lai chẳng phải là vô thường, thời chẳng nên nói sắc uẩn có mười thời kỳ sai biệt : Thời kỳ đông lại, thời kỳ nổi bóng, thời kỳ ung nhọt, thời kỳ khối thịt, thời kỳ mọc đầu và tứ chi, thời kỳ bé thơ, thời kỳ trẻ, thời kỳ thiếu niên thời kỳ tráng niên, thời kỳ già suy. Nếu không phải là vô thường thời đông váng không thành bóng, nhọt nhẫn đến không có già suy. Nếu những thời kỳ chẳng phải niệm niệm hoại diệt, thời trọn chẳng có lần lần lớn lên, đáng lẽ phải đồng thời trưởng thành tất cả. Do đây biết rằng quyết định có niệm niệm vi tế vô thường.

Lại thấy có người thân thể toàn vẹn, nhan sắc tươi đẹp, lúc sau lại thấy người ấy gầy gò tiều tụy. Do đây biết rằng người này quyết định có niệm niệm vô thường.

Lại quán sát tứ đại và bốn oai nghi, trong ngoài đều có hai khổ nhân: Đói khát và lạnh nóng. Nếu không có niệm niệm vi tế vô thường, thời cũng lẽ ra không có bốn điều khổ ấy.

Suy xét như trên đây gọi là quán tưởng vô thường tế.

Như trong thân và ngoại cảnh tâm pháp cũng như vậy, vì tâm duyên theo sáu trần hoặc sinh lòng mừng, lòng giận, lòng yêu, v.v… lần lượt thay đổi khác, không trụ một niệm. Do đây nên biết rằng tất cả sắc pháp và tâm pháp đều vô thường cả.

Nếu Bồ Tát có thể ở trong một niệm thấy rõ tất cả pháp đều sinh diệt vô thường, đây gọi là Bồ Tát có đủ vô thường tưởng.

Này Thiện Nam Tử! Người trí tu tập vô thường tưởng rồi thời xa lìa quan niệm điên đảo chấp thường.

Kế lại tu tập khổ tưởng. Duyên cớ gì có sự khổ như vậy? Biết rõ rằng sự khổ này do nơi vô thường. Do vô thường mà có sinh, già , bệnh, chết. Vì có sinh già bệnh chết nên gọi là vô thường. Vì vô thường mà chịu lấy những sự khổ: Đói, khát, lạnh, nóng v.v…

Lại quán sát thân thể này chính là khí cụ vô thường, là khổ. Vì là khí cụ khổ nên bao nhiêu sự nhận lấy của thân đều là khổ cả.

Lại quán sát sinh là khổ, diệt là khổ. Sinh diệt chính là vô thường, chẳng phải ngã, chẳng phải ngã sở, nên tu vô ngã tưởng.

Lại quán sát khổ là vô thường, vô thường tức là khổ. Nếu đã là khổ vô thường, người trí đâu nên cho rằng có ngã! Khổ không phải là ngã, vô thường cũng vậy.Cả năm ấm đều là khổ là vô thường, sao chúng sinh lại cho là có ngã!

Lại quán sát tất cả pháp có nhiều thứ hòa hiệp sai khác. Chẳng phải từ một hòa hiệp sinh tất cả pháp. Lại một pháp chẳng phải là quả của tất cả hòa hiệp. Tất cả hòa hiệp đều không tự tính, cũng không một tính, cũng không tính sai khác, cũng không vật tính, cũng không tự tại. Các pháp đã có những tướng như vậy, người trí đâu nên nói là có ngã.

Lại suy nghĩ rằng: Trong tất cả pháp không có một pháp nào là tác giả. Một pháp đã không phải tác giả. Tính của các pháp hòa hiệp cũng không thể là tác giả. Tính của các pháp không thể tự sinh tự diệt, do hòa hiệp mà diệt, do hòa hiệp mà sinh. Khi pháp đã sinh, chúng sinh điên đảo tưởng rằng là hòa hiệp, từ hòa hiệp sinh. Chúng sinh điên đảo tưởng niệm không có chân thật. Như thế thời đâu có thật ngã! Do đây nên người trí quán sát vô ngã.

Lại quán sát duyên cớ gì mà chúng sinh nói là ngã? Ngã này nếu là có, thời là một hay nhiều. Nếu ngã chỉ có một, thời sao lại có Sát Đế Lợi, Bà La Môn v.v…nhẫn đến nhân, thiên, quỉ, súc sinh. Nếu ngã là nhiều, sao lại nói rằng ngã của chúng sinh là duy nhất, là khắp, là không biến tế. Cho là một hay là nhiều, cả hai đều không có ngã cả.

Người trí đã quán vô ngã rồi, kế lại quán tưởng yểm ly thực.

Nên suy nghĩ rằng: Nếu tất cả pháp là vô thường, khổ, vô ngã, sao lại vì sự ăn mà thân, khẩu, ý gây tạo ác nghiệp! Nếu có chúng sinh nào vì tham ăn mà thân, khẩu, ý gây tạo nghiệp ác, bao nhiêu của cải có ra, mọi người đều cùng hưởng dụng, về sau lúc mất quả khổ, không một ai cùng chia.

Lại quán sát tất cả chúng sinh vì ăn uống mà thân tâm chịu khổ. Nếu từ các sự khổ mà được ăn uống, sao ta lại đối với sự ăn uống mà sinh lòng tham đắm.

Kế lại nên quán sát thân nhân. Do nơi uống ăn mà thân thể tăng trưởng. Nay ta xuất gia vì muốn xả thân nên thọ giới tu hành, nếu tham đắm ăn uống thời sao gọi là xả thân! Quán sát như vậy rồi, dầu có ăn uống, nhưng coi như quỉ Khóang Dã ăn thịt con của nó, trong lòng nhàm ghét không biết ngon ngọt.

Quán sát rõ món ăn uống có lỗi như vậy rồi, kế lại quán xúc thực: Như con bò bị lột da, có vô số kiến ruồi bu cắn. Kế quán tư thực như đống lửa lớn. Quán thức thực như ba trăm mâu nhọn.

Người trí quán sát bốn thứ thực này rồi thời không còn có quan niệm tham ưa. Nếu còn tham ưa thời nên quán bất tịnh để lìa hẳn sự ái nhiễm đối với tứ thực. Phải khéo phân biệt sự bất tịnh của tất cả thứ uống ăn. Lúc thọ ăn món ngon món dở, xem như thuốc thoa ghẻ, trọn không sinh lòng tham ái. Nếu có thể quán sát như trên đây thời gọi là người trí trọn nên quán tưởng yểm ly thực.

- Bạch Thế Tôn! Người trí quán sát món ăn là bất tịnh, đó là thật quán hay hư quán? Nếu là thật quán thời thức ăn đương quán thật chẳng phải bất tịnh. Nếu là hư quán, thời sao lại gọi là thiện tưởng?

Này Thiện Nam Tử! Quán tưởng như vậy, cũng là thật cũng là hư: Vì có thể trừ quan niệm tham ăn nên gọi là thật; vì không phải trùng dòi mà thấy là trùng dòi nên gọi là hư.

Này Thiện Nam Tử! Tất cả pháp hữu lậu đều gọi là hư, mà cũng có thể được thật.

Này Thiện Nam Tử! Nếu có Tỳ Kheo lúc muốn đi khất thực, tự nghĩ rằng: Tôi sẽ đi khất thực, mong được món ăn ngon, nhiều và mau được, đừng được món ăn dở, ít và chậm lâu. Tỳ Kheo này chẳng được gọi là có yểm ly tưởng đối với sự ăn uống, pháp lành sẽ suy hao lần, pháp chẳng lành sẽ càng ngày càng tăng trưởng.

Này Thiện Nam Tử! Nếu có Tỳ Kheo lúc muốn đi khất thực, phải nguyện trước rằng: Cầu mong cho những người khất thực đều được no đủ, người bố thí vô lượng phước. Nếu tôi được món ăn, cũng chỉ là dùng để chữa bệnh cho thân thể ác độc này, để tu tập pháp lành, cho thí chủ được lợi ích. Tỳ Kheo lúc phát nguyện thời pháp lành lần tăng trưởng, pháp chẳng lành tiêu diệt lần. Tỳ Kheo này chẳng luống ăn của tín thí.

Này Thiện Nam Tử! Người trí có đủ bốn pháp quán tưởng như vậy thời có thể tu pháp quán tưởng “Thế gian không đáng ưa thích”. Suy nghĩ rằng: Tất cả thế gian không chỗ nào chẳng có sự sinh, già, bệnh, chết, mà thân của tôi không chỗ nào chẳng sinh. Thế gian đã không có một chỗ nào lìa được sự sinh, già, bệnh, chết, như vậy tại sao tôi lại ưa thích thế gian! Tất cả thế gian không có gì tiến đắc mà chẳng phải thối thất, nên thế gian quyết định là vô thường. Đã là vô thường, người trí đâu nên ưa thích thế gian.

Mỗi chúng sinh trải qua khắp tất cả thế gian, hưởng thọ đủ cả sự khổ vui, đều được thân Phạm Thiên cho đến Trời Phi Phi Tưởng, lúc mạng chung cũng lại phải sa vào ba ác đạo. Dầu được thân Trời Tứ Thiên Vương cho đến Trời Tha Hóa Tự Tại, lúc mạng chung hoặc phải sinh trong loài súc sinh làm thân sư tử, cọp, sói, voi, ngựa, bò, lừa v.v…

Kế lại suy nghĩ: Chuyển Luân Thánh Vương thống lãnh bốn châu thiên hạ, sang giàu tự tại, lúc hết phước phải nghèo khốn ăn mặc không đủ.

Người trí quán tưởng như trên đây rồi, thời có quan niệm thế gian không đáng ưa thích.

Người trí lại quán sát tất cả tài vật, châu báu, nhà cửa, hương hoa v.v… ở thế gian dầu dùng để đỡ khổ, nhưng những vật ấy chính nó là khổ, sao lại dùng khổ để lìa khổ.

Này Thiện Nam Tử! Người trí quán sát như vậy rồi thời chẳng còn ưa thích tài vật ở thế gian. Như có người thân mang bệnh nặng, dầu có những thứ âm nhạc ca hát hoa hương chuỗi ngọc, nhưng trọn chẳng sinh lòng ưa thích. Người trí quán sát những điều trên đây không tham ưa tài vật châu báu ở thế gian cũng như vậy.

Này Thiện Nam Tử! Người trí quán sát tất cả thế gian đều chẳng phải chỗ quy y, chẳng phải chỗ giải thoát, chẳng phải chỗ tịch tịnh, chẳng phải chỗ đáng ưa, chẳng phải bờ kia, chẳng phải thường, lạc, ngã, tịnh. Nếu tôi tham ưa nơi thế gian thời tôi làm thế nào lìa được thế gian, như người chẳng thích ở trong tối muốn tìm ánh sáng mà lại trở về trong tối. Trong tối là thế gian, ánh sáng là xuất thế. Nếu tôi ưa thích thế gian thời là thêm lớn sự đen tối mà muốn xa lìa đen tối.

Đen tối là vô minh, ánh sáng là trí minh. Chính quan niệm chẳng ưa thích thế gian là nhân của trí minh. Tất cả kiết sử tham ưa dầu hay trói buộc, nhưng nay tôi tham ưa trí minh mà chẳng tham ưa thế gian.

Người trí quán sát rõ những sự trên đây rồi thời có đủ quan niệm rằng thế gian là chẳng đáng ưa thích.

Này Thiện Nam Tử! Người trí kế lại tu tập tư tưởng: Quán sát thọ mạng này thường bị vô lượng oán thù vây quanh, niệm niệm tổn diệt không có tăng trưởng, như nước dốc trên núi không thể đứng dừng, cũng như sương móc ban mai thế chẳng còn lâu, như người tù bị dắt ra chợ mỗi bước gần đến chỗ chết, như dắt bò dê đến chỗ hàng thịt.

- Bạch Thế Tôn! Người trí quán sát niệm niệm diệt như thế nào?

Này Thiện Nam Tử! Như bốn người đều có tài bắn giỏi họp nhau ở một chỗ, mỗi người riêng bắn qua một hướng đồng nghĩ rằng bốn mũi tên của chúng tôi đồng thời bắn ra đồng thời rơi xuống. Lại có một người nghĩ rằng lúc bốn mũi tên này chưa rơi xuống, trong một lúc tôi có thể dùng tay bắt lấy.

Này Thiện Nam Tử! Đáng gọi người này là mau lẹ chăng?

- Bạch Thế Tôn! Người này thật mau lẹ.

Này Thiện Nam Tử! Địa Hành quỉ còn lẹ hơn người này. Phi Hành quỉ lại mau hơn Địa Hành quỉ. Tứ Thiên Vương mau hơn Phi Hành quỉ. Nhựt Nguyệt Thần Thiên mau hơn Tứ Thiên Vương. Hành Kiên Tật Thiên mau hơn Nhựt Nguyệt Thiên. Thọ mạng của chúng sinh lại mau hơn Kiên Tật Thiên.

Này Thiện Nam Tử! Một hơi thở một nháy mắt, thọ mạng của chúng sinh có bốn trăm lần sinh diệt. Nếu có thể quán sát thọ mạng như vậy thời gọi là có thể quán niệm niệm diệt.

Này Thiện Nam Tử! Người trí quán sát thọ mạng thuộc nơi vua chết, nếu tôi lìa được vua chết này thời dứt hẳn được thọ mạng vô thường. Lại nên quán sát thọ mạng này như cây to bên bờ sông lở, như người phạm tội lúc bị xử tử không ai xót thương, như lúc Sư Tử Vương quá đói, như lúc rắn độc hớp gió to, như lúc ngựa khát nươc nó giữ gìn nước, như lúc đại ác quỉ phát sân, vua chết của chúng sinh cũng dữ độc như vậy.

Người trí nếu có thể quán sát như vậy thời gọi là tu tập tư tưởng.

Này Thiện Nam Tử! Người trí lại nên quán sát rằng nay tôi xuất gia dầu thọ mạng chỉ có bảy ngày bảy đêm, trong thời gian ấy tôi sẽ tinh tấn tu hành giữ gìn cấm giới, thuyết pháp giáo hóa lợi ích chúng sinh, đây là người trí tu tập tư tưởng.

Lại vì bảy ngày bảy đêm còn là nhiều, nếu được sáu ngày, hoặc năm ngày, bốn ngày, ba ngày, hai ngày, một ngày, một giờ, nhẫn đến trong khoảng một hơi thở ra vào, trong thời gian này tôi sẽ tinh tấn tu hành, giữ gìn cấm giới, thuyết pháp giáo hóa lợi ích chúng sinh. Đây gọi là người trí khéo tu tập tư tưởng.

Người trí có đủ sáu pháp quán tưởng trên đây có thể làm nhân cho bảy pháp quán tưởng. Đây là bảy pháp quán tưởng: Một là quán tưởng thường tu tập, hai là quán tưởng thích tu tập, ba là quán tưởng không sân hận, bốn là quán tưởng không tật đố, năm là quán tưởng phát nguyện lành, sáu là quán tưởng không kiêu mạn, bảy là quán tưởng tam muội tự tại.

Này Thiện Nam Tử! Nếu có Tỳ Kheo nào có đủ bảy pháp quán tưởng này, thời gọi là Sa Môn, là Bà La Môn, là tịch tịnh, là tịnh khiết, là giải thoát, là người trí, là chính kiến, là đáo bĩ ngạn, là đại Y Vương, là đại thương chủ, là hiểu rõ pháp bí mật của Như Lai, là biết bảy thứ lời nói của chư Phật , là tri kiến chân chính, dứt được những lưới nghi trong bảy thứ lời nói của chư Phật.

Này Thiện Nam Tử! Nếu người nào có đủ sáu pháp quán tưởng như trên, nên biết rằng người đó có thể quở trách ba cõi, xa lìa ba cõi, dứt trừ ba cõi, chẳng ưa đắm ba cõi. Đây gọi là người trí có đủ mười pháp quán tưởng.

Nếu Tỳ Kheo nào có đủ mười pháp quán tưởng này thời đáng được gọi là tướng Sa Môn.

Lúc đó Ca Diếp Bồ Tát liền ở trước Phật nói kệ tán thán:

Đấng Đại Y Vương thương thế gian,

Thân và trí huệ đều tịch tịnh,

Trong pháp vô ngã có chân ngã,

Nên tôi kỉnh lễ Vô Thượng Tôn.

Phát tâm và rốt ráo không sai khác,

Hai tâm này tâm trước khó hơn,

Mình chưa được độ, độ người trước,

Nên tôi kỉnh lễ sơ phát tâm.

Sơ tâm đã là Thầy Trời, người,

Hơn bậc Thanh Văn và Duyên Giác,

Phát tâm như vậy hơn ba cõi,

Nên được gọi là Tối Vô Thượng.

Trong đời phải cầu rồi mới được,

Phật không chờ thỉnh mà làm Thầy,

Phật theo thế gian như nghé con,

Nên được gọi là đấng đại bi.

Công đức của Phật khắp mười phương,

Phàm phu vô trí chẳng thể khen,

Nay tôi tán thán tâm từ bi,

Để báo đáp hai nghiệp thân khẩu.

Thế gian thường ưa tự lợi ích,

Đức Phật trọn chẳng có như vậy,

Dứt báo thế gian cho chúng sinh,

Nên tôi kỉnh lễ Tự Tha Lợi,

Người đời làm lợi cho thân nhân,

Đức Phật lợi ích không thân thù,

Phật không riêng biệt như người đời,

Do đây tâm Phật thường bình đẳng.

Người đời nói khác việc làm khác,

Nói làm của Phật đều không sai,

Phàm chỗ tu hành xả các hạnh,

Do đây được gọi là Như Lai.

Trước đã rõ biết lỗi phiền não,

Thị hiện ở đó vì chúng sinh,

Từ lâu đã giải thoát thế gian,

Vì từ bi mà ở sinh tử.

Dầu hiện thân trời cùng thân người,

Từ bi theo dõi như nghé con,

Đức Phật là mẹ của chúng sinh,

Từ tâm chính là nghé con nhỏ.

Tự chịu khổ não vì chúng sinh.

Do xót thương nên lòng chẳng hối.

Quá xót thương mà chẳng biết khổ,

Nên tôi cúi lạy đấng cứu khổ.

Đức Phật dầu làm vô lượng phước,

Nhưng thân khẩu ý thường thanh tịnh,

Thường vì chúng sinh chẳng vì mình,

Nên tôi kỉnh lễ nghiệp thanh tịnh.

Đức Phật chịu khổ chẳng biết khổ,

Thấy người chịu khổ như mình khổ,

Dầu vì chúng sinh ở địa ngục,

Chẳng có niệm khổ và ăn năn.

Chúng sinh chịu khổ đều khác nhau,

Mà Như Lai một mình chịu khổ,

Biết rồi tâm Phật càng kiên cố,

Do đây siêng tu đạo vô thượng.

Phật đủ tâm đại từ duy nhất,

Thương xót chúng sinh xem như con,

Chúng sinh chẳng biết Phật cứu mình,

Nên hủy báng Phật cùng Pháp, Tăng.

Thế gian có đủ những phiền não,

Cũng có vô lượng những lỗi ác,

Phiền não và tội lỗi như vậy,

Lúc sơ phát tâm đã dứt trừ.

Chư Phật mới tán thán được Phật,

Ngoài Phật không ai tán thán được,

Nay tôi chỉ tán thán một điều,

Là tâm đại từ thương thế gian.

Từ tâm của Phật là pháp lớn,

Từ tâm này độ được chúng sinh,

Chính đây là vô thượng giải thoát,

Giải thoát này là Đại Niết Bàn.

 


 

Viết bình luận

Chúc mừng năm mới
Copyright © 2015 daibaothapmandalataythien.org. All Rights Reserved.
Xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Email: daibaothapmandalataythien@gmail.com

Đăng ký nhận tin mới qua email
Số lượt truy cập: 5777713
Số người trực tuyến: