Trang 02 | Đại Bảo Tháp Mandala Tây Thiên | Đại Bảo Tháp | Đại Bảo Tháp Tây Thiên

Trang 02

PHẨM CA DIẾP BỒ TÁT THỨ HAI MƯƠI BỐN

Trang 02

Trong khế kinh ta nói thân của Như Lai có hai thứ: Một là sinh thân, hai là pháp thân. Sinh thân là thân phương tiện ứng hóa. Thân này có thể nói là sinh già bệnh chết, cao thấp đen trắng, là đây là kia là học là vô học. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai quyết định nói thân Phật là pháp hữu vi. Pháp thân là thường lạc ngã tịnh, lìa hẳn tất cả sinh già bệnh chết, chẳng phải trắng đen, chẳng phải cao thấp, chẳng phải đây kia, chẳng phải học vô học, Phật ra đời hoặc chẳng ra đời vẫn thường trụ chẳng động không biến đổi. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta, bèn cho rằng đức Như lai quyết định nói thân Phật là pháp vô vi.

Này Thiện Nam Tử! Trong khế kinh ta nói mười hai nhân duyên: Từ vô minh sinh ra hành, từ hành sinh ra thức, từ thức sinh ra danh sắc, từ danh sắc sinh ra lục nhập, từ lục nhập sinh ra xúc, từ xúc sinh ra thọ, từ thọ sinh ra ái, từ ái sinh ra thủ, từ thủ sinh ra hữu, từ hữu sinh ra sinh, từ sinh thời có già chết buồn khổ. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn nói rằng đức Như Lai nói mười hai nhân duyên quyết định là hữu vi.

Lại một ngày kia ta bảo các Tỳ Kheo rằng mười hai nhân duyên tính tướng là thường trụ không luận có Phật hay không Phật. Có mười hai duyên chẳng từ duyên sinh, có từ duyên sinh chẳng phải mười hai duyên, có từ duyên sinh cũng là mười hai duyên, có chẳng phải duyên sinh mà cũng chẳng phải là mười hai duyên.

Có mười hai duyên chẳng phải là duyên sinh, chính là mười hai chi đời vị lai. Có từ duyên sinh mà chẳng phải là mười hai chính là thân ngũ ấm của A La Hán. Có từ duyên sinh cũng là mười hai duyên chính là thân ngũ ấm của phàm phu. Mười hai nhân duyên chẳng phải là duyên sinh, chẳng phải mười hai duyên chính là hư không Niết Bàn.

Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta, bèn cho rằng đức Như Lai nói mười hai nhân duyên quyết định là vô vi.

Này Thiện Nam Tử! Trong khế kinh ta nói tất cả chúng sinh tạo nghiệp thiện ác, lúc chết, tứ đại này liền hư hoại. Người tạo nghiệp thuần thiện tâm thức liền đi lên, người tạo nghiệp thuần ác tâm thức liền đi xuống. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói tâm quyết định là thường trụ.

Này Thiện Nam Tử! Một thuở kia ta nói với vua Tần Bà Ta La rằng: Này Đại vương! Sắc là vô thường vì từ nhân vô thường mà sinh ra sắc. Nếu sắc đã từ nhân vô thường mà sinh, người trí không bao giờ nói sắc là thường. Nếu sắc là thường lẽ ra chẳng hoại diệt sinh các khổ não. Nay thấy sắc hoại diệt nên biết rằng sắc là vô thường. Như sắc, thọ tưởng hành thức cũng như vậy.

Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói tâm quyết định đoạn diệt.

Này Thiện Nam Tử! Trong khế kinh ta nói hàng đệ tử lãnh thọ những hoa hương vàng bạc vật báu vợ con tôi tớ, tám vật bất tịnh chứng được chính đạo cũng chẳng rời bỏ những vật ấy. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói hưởng thọ ngũ dục chẳng chướng ngại thánh đạo.

Lại có lúc ta nói người tại gia không thể chứng được chính đạo. Hàng đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói hưởng thọ ngũ dục quyết định chướng ngại chính đạo.

Trong khế kinh ta nói xa lìa phiền não chưa được giải thoát như cõi dục tu tập pháp thế đệ nhất. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói pháp thế đệ nhất chỉ là cõi dục.

Trong khế kinh ta lại nói noãn pháp, đỉnh pháp, nhẫn pháp, thế đệ nhất pháp thuộc nơi sơ thiền đến tứ thiền. Với các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói bốn pháp ấy thuộc nơi cõi sắc. Trong khế kinh ta lại nói hàng ngoại đạo đã dứt được phiền não cõi tứ thiền tu tập noãn pháp đỉnh pháp, nhẫn pháp, thế đệ nhất pháp, quán tứ đế chứng quả A Na Hàm. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói thế đệ nhất pháp thuộc nơi cõi vô sắc.

Trong khế kinh ta từng nói trong bốn thứ bố thí có ba điều trong sạch: Một là thí chủ tin nhân tin quả tin bố thí, người thọ chẳng tin nhân, chẳng tin quả cùng bố thí, hai là thí chủ chẳng tin nhân quả và bố thí, người thọ tin nhân quả và bố thí; ba là thí chỉ và người thọ cả hai đều có lòng tin; bốn là thí chủ và người thọ cả hai đều chẳng tin. Bốn thứ bố thí trên đây ba hạng ban đầu là trong sạch. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói bố thí chỉ thuộc nơi ý.

Có một lúc kia ta lại nói rằng người bố thí lúc bố thí đem năm việc ra bố thí: Một là bố thí sắc, hai là bố thí sức lực, ba là bố thí an ổn, bốn là bố thí mạng sống, năm là bố thí biện tài, do nhân duyên này nên thí chủ trở lại được năm quả báo. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Phật nói bố thí tức là năm ấm.

Có một lúc ta nói rằng: Niết Bàn tức là viễn ly, phiền não dứt hẳn không còn thừa sót, như đèn đã tắt, không còn pháp gì sinh trở lại, Niết Bàn cũng như vậy.

Nói hư không đó tức là không chỗ có, như trong đời gọi chỗ không có là hư không, chẳng phải do trí dứt mới không chỗ có. Nếu hư không là có lẽ ra phải có nhân duyên nếu đã có nhân duyên lẽ ra phải có dứt diệt, bởi hư không vốn là không nên không có dứt diệt. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Phật nói không có ba pháp vô vi.

Một lúc kia ta bảo Mục Kiền Liên rằng luận về Niết Bàn tức là chương cú, tức là dấu vết, tức là chỗ rốt ráo, là chỗ vô sở úy, là bậc đại sư, là đại quả, là trí rốt ráo, là đại nhẫn, là vô ngại tam muội, là đại pháp giới, là cam lộ vị, là khó thấy biết. Này Mục Kiền Liên! Nếu nói rằng không Niết Bàn, tại sao có người sinh lòng hủy báng Niết Bàn lại phải đọa địa ngục. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói có Niết Bàn.

Lại một lúc kia ta bảo Mục Kiền Liên rằng nhãn căn chẳng bền chắc nhẫn đến thân cũng chẳng bền chắc. Vì chẳng bền chắc nên gọi là hư không. Ăn nuốt xuống rồi xoay chuyển tiêu hóa. Tất cả âm thanh đều gọi là hư không. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai quyết định nói có hư không vô vi.

Ta lại bảo Mục Kiền Liên có người chưa được quả Tu Đà Hoàn, lúc trụ nơi nhẫn pháp, dứt vô lượng quả báo trong ba đường dữ, nên biết rằng chẳng phải trừ nơi trí mà dứt diệt. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta, bèn cho rằng đức Như Lai quyết định nói có chẳng phải do trí mà dứt diệt. Lại một lúc kia ta nói với Tỳ Kheo Bạt Ba nếu Tỳ Kheo quán nơi sắc : Hoặc quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc gần hoặc xa, hoặc thô hoặc tế, những sắc như vậy chẳng phải là ngã chẳng phải ngã sở: Quán như vậy có thể dứt được lòng tham ái nơi sắc, _ Bạt Ba bạch rằng: Thế nào gọi là sắc?

Ta đáp: Tứ đại gọi rằng sắc, thọ tưởng hành thức bốn ấm này gọi là danh. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai quyết định nói sắc là tứ đại.

Này Thiện Nam Tử! Ta lại nói rằng như nhân nơi mặt gương mà có bóng hình hiện ra, sắc cũng như vậy nhân nơi tứ đại tạo thành. Chính là những thứ to, nhỏ, rít, trơn, xanh, vàng, đỏ, trắng, dài, vắn, vuông, tròn, cong , ngay, nhẹ, nặng, lạnh, nóng, đói khát, khói, mây, bụi mù, đây gọi là những sắc do tứ đại tạo thành dường như vang bóng. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói có tứ đại thời có sắc do tứ đại tạo thành, hoặc nói có tứ đại mà không có sắc.

Này Thiện Nam Tử! Trước kia Phương Tử Bồ Đề nói rằng nếu có Tỳ Kheo trì giới lúc phát tâm ác, nên biết rằng lúc đó mất giới Tỳ Kheo. Ta nghe lời này bèn bảo rằng: Này Phương Tử! Giới có bảy thứ từ nơi thân và miệng mà có vô tác biểu sắc. Do nhân duyên vô tác biểu sắc này nên dầu tâm của Tỳ Kheo ở trong ác vô ký nhưng chẳng gọi là mất giới, vẫn còn gọi là trì giới. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Phật nói có vô tác biểu sắc.

Này Thiện Nam Tử! Trong các kinh khác ta có nói rằng giới chính là ngăn chế pháp ác, nếu chẳng làm ác đây gọi là trì giới. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn xướng rằng đức Như Lai quyết định nói không có vô tác biểu sắc.

Này Thiện Nam Tử! Trong khế kinh ta từng nói sắc ấm của thánh nhân nhẫn đến thức ấm đều là do vô minh sinh ra. Tất cả phàm phu cũng như vậy, từ vô minh sinh ra ái, nên biết rằng ái này chính là vô minh, từ ái sinh ra thủ, nên biết rằng thủ này chính là vô minh ái. Tù thủ sinh ra hữu, hữu này chính là vô minh ái thủ. Từ hữu sinh ra thọ, nên biết rằng thọ này chính là hành hữu. Từ nơi thọ sinh ra danh sắc, vô minh ái, thủ, hữu, hành, thọ, xúc, thức, lục, nhập v.v… do đây nên thọ chính là mười hai chi. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói không có tâm sở.

Này Thiện Nam Tử! Trong khế kinh ta từng nói từ nơi nhãn, sắc, minh và ác dục, do bốn thứ này làm nhân duyên sinh ra nhãn thức. Ác dục trong đây chính là vô minh, lúc dục cầu thời gọi là ái, do ái mà có thủ, thủ đây gọi là nghiệp, nghiệp làm duyên cho thức, thức làm duyên cho danh sắc, danh sắc làm duyên cho lục nhập, lục nhập làm duyên cho xúc, xúc làm duyên cho tưởng thọ ái, tín, tinh tấn định và huệ, những pháp này nhân nơi xúc mà sinh nhưng chẳng phải là xúc. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói có tâm sở.

Này Thiện Nam Tử! Hoặc có lúc ta nói chỉ có một cỏi, hoặc nói hai ba bốn năm sáu mười tám chín nhẫn đến hai mươi lăm cõi. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói có năm cõi, hoặc nói có sáu cõi.

Này Thiện Nam Tử! Ngày trước lúc ở nơi rừng Ni Câu Đà tại thành Ca Tỳ La Vệ, Thích Ma Nam bạch với ta rằng: Thế Tôn sao gọi là Ưu Bà Tắc? Ta nói: Nếu có Thiện nam tử hoặc Thiện nữ nhân nào căn thân đầy đủ thọ ba pháp quy y thời gọi là Ưu Bà Tắc. Thích Ma Nam lại hỏi: Thế Tôn sao gọi là nhất phần Ưu Bà Tắc? Ta nói: Nếu thọ ba pháp quy y và thọ một giới thời gọi là nhất phần Ưu Bà Tắc. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói Ưu Bà Tắc được thọ từ phần.

Lại một lúc kia ta ở bên sông Hằng, Ca Chiên Diên đến bạch với ta rằng: Thế Tôn! Tôi giáo hoá chúng sinh khiến họ thọ pháp bát quan trai: Hoặc một ngày, hoặc một đêm, hoặc một giờ, hoặc một niệm, những người này được thành trai pháp chăng? Ta nói: Này Ca Chiên Diên, những người này chỉ được điều lành mà chẳng được gọi là được trai pháp. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn nói rằng đức Như Lai nói pháp bát quan trai thọ đủ mới được.

Trong khế kinh ta từng nói rằng nếu có Tỳ Kheo đã phạm bốn tội trọng thời chẳng gọi là Tỳ Kheo, gọi là phá Tỳ Kheo, hư mất Tỳ Kheo chẳng còn có thể sinh chủng tử pháp lành, như hột giống đã cháy chẳng còn mọc mầm sinh bông trái, như cây đa la nếu ngọn đã bị đứt thời chẳng còn sinh trái. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói các Tỳ Kheo phạm giới trọng rồi bèn mất giới Tỳ Kheo.

Trong khế kinh , ta vì Thuần Đà mà nói bốn hạng Tỳ Kheo: Một là hạng rốt ráo đến chính đạo, hai là hạng chỉ bày chính đạo, ba là hạng lãnh thọ chính đạo, bốn là hạng nhiễm ô chính đạo. Người phạm bốn tội trọng là hạng nhiễm ô chính đạo. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói các Tỳ Kheo đã phạm bốn tội trọng chẳng mất giới.

Trong khế kinh ta bảo các Tỳ Kheo có nhất thừa, nhất đạo, nhất hạnh, nhất duyên, bốn pháp này có thể làm cho chúng sinh được đại tịch tịnh, dứt hẳn tất cả sự ràng buộc sầu khổ, khổ quả cùng khổ nhân, làm cho tất cả chúng sinh đến nơi nhất thừa. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói Tu Đà Hoàn nhẫn đến A La Hán đều được Phật đạo.

Này Thiện Nam Tử! Trong khế kinh ta nói Tu Đà Hoàn bảy lần sinh qua lại trong nhân gian cùng cõi trời, bèn chứng A La Hán nhập Niết Bàn. Tư Đà Hàm một lần sinh trong nhân gian và cõi trời bèn nhập Niết Bàn. A Na Hàm phàm có năm hạng: Hoặc có trung gian nhập Niết Bàn nhẫn đến thượng lưu nhập Niết bàn. A La Hán phàm có hai hạng: Một là hiện tại, hai là vị lai, hiện tại cũng dứt phiền não ngũ ấm, vị lai cũng dứt phiền não ngũ ấm. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói Tu Đà Hoàn đến A La Hán chẳng được Phật đạo.

Trong khế kinh ta từng nói Phật tính đủ có sáu điều: Một là thường, hai là thật, ba là chân, bốn là thiện, năm là tịnh, sáu là có thể thấy. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói Phật tính của chúng sinh rời ngoài chúng sinh mà có.

Ta lại nói Phật tính của chúng sinh như hư không. Hư không chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, chẳng phải nội ngoại, chẳng phải sắc thinh hương vị xúc, Phật tính cũng như vậy. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói Phật tính của chúng sinh rời ngoài chúng sinh mà có.

Ta lại nói Phật tính của chúng sinh dường như kho châu báu ẩn kín trong nhà của bần nữ, như Kim Cang bảo châu ẩn trên trán của lực sĩ, như suối Cam Lộ của Chuyển Luân Thánh Vương. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói Phật tính của chúng sinh rời ngoài chúng sinh mà có.

Ta lại nói hàng Nhất Xiển Đề phạm bốn tội trọng, hủy báng kinh điển Đại thừa, tạo tội ngũ nghịch đều có Phật tính. Những chúng sinh này đều không có pháp lành. Phật tính là lành. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói Phật tính của chúng sinh rời ngoài chúng sinh mà có.

Ta lại nói chúng sinh chính là Phật tính, vì nếu rời chúng sinh thời chẳng được vô thượng Bồ Đề. Do đây nên ta vì vua Ba Tư Nặc mà nói ví dụ rờ voi: Như bọn người mù nói hình dạng của voi, dầu chẳng trúng nhưng đều chẳng rời ngoài voi. Chúng sinh nói sắc, nói thọ tưởng hành thức là Phật tính cũng như vậy, dầu chẳng phải là Phật tính nhưng chẳng phải rời Phật tính. Như ta vì vua Ba Tư Nặc mà nói ví dụ ống không hầu Phật tính cũng như vậy. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn lập ra nhiều thuyết khác nhau, như người mù hỏi màu của sữa, Phật tính cũng như vậy. Do cớ này, hoặc có người nói hàng Nhất Xiển Đề phạm bốn tội trọng hủy báng kinh Đại Thừa tạo tội ngũ nghịch đều có Phật tính. Hoặc có người nói là không có Phật tính.

Trong khế kinh nhiều lần ta nói rằng một người xuất thế thời nhiều người được lợi ích. Trong một cõi nước không có hai vua Chuyển Luân. Trong một thế giới không có hai đức Phật xuất thế. Một tứ thiên hạ không có tám Tứ Thiên Vương, nhẫn đến không có hai Tha Hoá Tự Tại Thiên. Ta nói từ Diêm Phù Đề, dưới đến địa ngục A Tỳ, trên đến trời Sắc Cứu cánh. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói không có Phật mười phương. Thật ra trong các kinh Đại Thừa ta nói có thập phương chư Phật.

Này Thiện Nam Tử! Những điều tranh tụng như vậy là cảnh giới của chư Phật chẳng phải hàng Thanh Văn Duyên Giác biết được. Nếu người nào đối với những việc này sinh lòng nghi còn có thể phá hoại được vô lượng phiền não. Nếu người nào ở trong những việc này sinh lòng quyết định thời gọi là chấp trước.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế nào là chấp trước?

Này Thiện Nam Tử! Những người như vậy hoặc do người khác dạy bảo, hoặc nghe người khác nói, hoặc tự tìm kinh điển, với những điều ham thích chẳng thể buông bỏ đây gọi là chấp trước.

- Bạch Thế Tôn! Sự chấp trước này là thiện hay là bất thiện?

Này Thiện Nam Tử! Sự chấp trước như vậy chẳng gọi là thiện, vì không thể phá hoại những lưới nghi.

- Bạch Thế Tôn! Những người này vốn tự chẳng nghi, sao lại nói rằng chẳng phá hoại lưới nghi?

Này Thiện Nam Tử! Luận về người chẳng nghi chính là nghi.

- Bạch Thế Tôn! Nếu có người nói rằng bậc Tu Đà Hoàn chẳng đọa ba ác đạo. Người này cũng nên gọi là chấp trước, là nghi.

Này Thiện Nam Tử! Nên gọi là quyết định, mà chẳng được gọi là nghi. Tại sao vậy? Này Thiện Nam Tử! Như có người trước kia thấy cây thấy người, về sau đi ban đêm từ xa thấy gốc cây trụi, bèn nghi rằng đó là người hay là cây? Như người trước thấy Tỳ Kheo và Phạm Chí, lúc sau đi đường từ xa thấy Tỳ Kheo bèn nghi rằng đó là Sa Môn hay là Phạm Chí? Như người trước thấy bò và trâu, lúc sau từ xa thấy bò, bèn nghi rằng đó là bò hay trâu?

Này Thiện Nam Tử! Tất cả chúng sinh trước thấy hai vật về sau bèn sinh nghi, vì trong tâm họ chẳng nhận được rõ ràng.

Ta cũng chẳng nói rằng bậc tu Đà Hoàn có đọa ba đường ác hay chẳng đọa ba đường ác, cớ gì người này lại sinh lòng nghi!

- Bạch Thế Tôn! Như Phật nói phải trước có thấy rồi sau mới nghi. Nhưng có người lúc chưa thấy hai vật cũng lại sinh nghi. Như đối với Niết Bàn. Như có người đi đường gặp dòng nước đục, trước kia chưa từng thấy mà cũng sinh nghi rằng dòng nước này sâu hay cạn.

Này Thiện Nam Tử! Luận về Niết Bàn chính là dứt khổ, chẳng phải là Niết Bàn thời chính là khổ. Tất cả chúng sinh thấy có khổ cùng chẳng phải khổ. Như thấy đói khát, lạnh nóng, giận mừng, bệnh gầy, an ổn, trẻ, già, sống chết, trói buộc, cởi mở, ân ái biệt ly, oán thù gặp gỡ, sau khi thấy những việc này, chúng sinh bèn nghi rằng sẽ có những gì xa lìa vĩnh viễn những sự khổ não này chăng? Do đây nên chúng sinh đối với Niết Bàn mà sinh nghi.

Nếu ông cho rằng người đó từ trước đến nay chưa từng thấy dòng nước đục này sao lại sinh nghi. Lời nói này không đúng nghĩa, vì người đó ở nơi chỗ khác đã từng thấy rồi, nên ở nơi chỗ mới đến này mà sinh nghi.

- Bạch Thế Tôn! Người đó lúc trước thấy nước sâu cạn đã chẳng sinh nghi, nay cớ gì mà sinh nghi?

Này Thiện Nam Tử! Vì trước kia chưa đi nên sinh nghi. Do đây nên ta nói rằng vì trong tâm họ chẳng nhận được rõ ràng nên sinh nghi.

- Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói nghi chính là chấp trước, chấp trước chính là nghi, đây là ngườ nào?

Này Thiện Nam Tử! Là người dứt căn lành.

- Bạch Thế Tôn! Những hạng người nào có thể dứt căn lành.

Này Thiện Nam Tử! Người thông minh lanh lợi có thể khéo phân biệt, nếu xa lìa bạn lành chẳng nghe chính pháp, chẳng khéo tư duy, chẳng thật hành đúng pháp, người này có thể dứt căn lành.

Người thông minh này vì thiếu bốn điều trên mà tự suy nghĩ rằng: Không có vật bố thí, vì người thí là rời bỏ của cải, nếu bố thí mà có quả báo, thời thí chủ phải thường nghèo cùng, vì nhân cùng quả giống nhau. Do suy nghĩ những việc như vậy nên người này nói rằng không nhân không quả. Nếu nói không nhân không quả như vậy thời gọi là dứt căn lành.

Người thông minh này lại suy nghĩ rằng: Thí chủ, người thọ và tài vật đều là vô thường biến đổi, nếu không biến đổi sao lại nói rằng đây là thí chủ, đây là người thọ, đây là của cải, nếu không người thọ sao lại được quả báo, do nghĩa này nên biết rằng không nhân không quả. Nếu nói không nhân không quả như vậy thời gọi là dứt căn lành.

Người thông minh này lại suy nghĩ rằng: Lúc thí chủ bố thí có năm sự bố thí: Người thọ thí khi lãnh được của cải rồi hoặc làm lành, hoặc làm điều chẳng lành, mà thí chủ này cũng chẳng mắc phải quả báo lành hay chẳng lành, như trong đời từ hột sinh ra trái, rồi từ trái trở lại có hột. Nhân chính là thí chủ, quả chính là người thọ, mà người thọ này không thể đem điều thiện, điều bất thiện của mình đã làm khiến cho thí chủ được quả báo thiện cùng bất thiện, do nghĩa này nên không nhân không quả. Nếu nói không nhân không quả như vậy, nên biết người này có thể dứt căn lành.

Người thông minh này lại suy nghĩ rằng: Không có vật bố thí, vì vật bố thí là vô ký, đã là vô ký thời đâu có quả báo lành, không quả báo lành tức là vô ký, của vật nếu là vô ký nên biết rằng không có quả báo thiện ác, nên không có sự bố thí không nhân không quả. Nếu nói rằng không nhân không quả như vậy phải biết người này có thể dứt căn lành.

Người thông minh này lại suy nghĩ rằng: Người bố thí do nơi ý, ý này chẳng phải là sắc pháp, không thể thấy không đối tượng, đã chẳng phải là sắc pháp thời đâu có thể bố thí, do đây nên không có sự bố thí không nhân không quả. Nếu nói không nhân không quả như vậy, phải biết rằng người này có thể dứt căn lành.

Người thông minh lại suy nghĩ rằng: Nếu thí chủ cúng thí cho tượng Phật, tượng chư Thiên cho cha mẹ đã qua đời, như vậy là có người thí mà không người thọ, nếu không người thọ thời lẽ ra không quả báo, nếu không quả báo thời là không nhân, nếu đã không nhân thời là không quả. Nếu nói không nhân quả như vậy, phải biết rằng người này có thể dứt căn lành.

Người thông minh này lại suy nghĩ rằng: Không cha không mẹ. Nếu nói cha mẹ là nhân sinh ra chúng sinh, đúng lý phải thường sinh không có đoạn tuyệt, vì nhân là thường có, nhưng chẳng thường sinh, do đây nên biết rằng không có cha mẹ. Người này lại nghĩ rằng: Không cha không mẹ. Vì nếu thân chúng sinh do cha mẹ mà có, lẽ ra một người phải đủ cả hai căn nam nữ, nhưng sự thật không có đủ, do đây biết rằng chúng sinh chẳng phải do cha mẹ mà có. Người này lại nghĩ rằng chẳng phải do cha mẹ mà có ra chúng sinh, vì chính mắt họ thấy chúng sinh chẳng giống với cha mẹ, nghĩa là thân hình diện mạo tâm tính đi đứng cử động chẳng giống với cha mẹ, nên cha mẹ chẳng phải là nhân sinh ra chúng sinh. Người này lại nghĩ rằng trong đời có bốn thứ không có: Một là chưa sinh gọi là không có, như lúc còn là viên đất sét thời chưa có công dụng của cái bình; hai là đã diệt mất gọi là không có, như cái bình đã bể hư thời gọi là không có; ba là riêng khác nhau nên lẫn không có, như trong bò không có ngựa trong ngựa không có bò; bốn là rốt ráo gọi là không có, như sừng thỏ lông rùa. Cha mẹ cũng đồng như bốn thứ không có này. Nếu nói cha mẹ là nhân có ra chúng sinh, lúc cha mẹ chết đứa con bất tất cũng chết, do đây nên cha mẹ chẳng phải là nhân sinh ra chúng sinh. Người này lại nghĩ rằng: Nếu nói cha mẹ là nhân sinh ra chúng sinh, lẽ ra nhân nơi cha mẹ thường sinh ra chúng sinh, nhưng lại có hóa sinh và thấp sinh, do đây nên biết chẳng phải nhân nơi cha mẹ sinh ra chúng sinh. Người này lại nghĩ rằng: Tự có chúng sinh chẳng phải nhân nơi cha mẹ mà được sinh trưởng như chim công nghe tiếng sấm nổ mà có trứng, như chim thanh tước uống nước mắt của chim tước trống mà có trứng, như chim cộng mạng thấy chim trống múa bèn có trứng. Người này lúc suy nghĩ những điều trên đây nếu chẳng gặp được bậc thiện tri thức khai thị, phải biết rằng người này có thể dứt căn lành.

Người thông minh này lại nghĩ rằng: Trong đời không có quả thiện ác, vì có những chúng sinh tu tập đủ mười điều lành, ưa thật hành bố thí siêng làm công đức, mà những người này cũng lại bị các bệnh tật nhóm trên thân, hoặc chết yểu, hoặc mất của, hoặc nhiều sự lo khổ. Cũng có những người tạo đủ mười điều dữ, tham lam bỏn xẻn tật đố giải đãi, mà lại mạnh khỏe sống lâu, hoặc giàu có không sầu khổ, do đây nên biết rằng không có quả thiện ác. Người này lại nghĩ rằng: Tôi cũng từng nghe các thánh nhân nói có người tu tập pháp lành khi chết bị đọa trong ba đường dữ. Có người làm điều ác khi chết sinh trong loài người trên trời, do đây nên biết rằng không quả thiện ác. Người này lại nghĩ rằng: Các thánh nhân nói hai thuyết: Hoặc nói sát sinh được quả báo lành, hoặc nói sát sinh mắc quả báo dữ. Thánh nhân còn nói bất định, tại sao tôi lại nói quyết định, do đây nên biết không có quả thiện ác.

Người thông minh này lại nghĩ rằng: Trong đời không có thánh nhân, vì nếu nói là thánh nhân thời phải chứng được thánh đạo. Tất cả chúng sinh lúc có đủ phiền não tu hành chính đạo, nên biết rằng người này đồng thời đủ có phiền não và chính đạo. Nếu đồng thời có thời chính đạo chẳn g phá được kiết sử. Nếu không phiền não mà tu hành chính đạo, thời chính đạo ấy dùng làm gì? Do đây nên người đủ phiền não thời chính đạo chẳng thể phá hoại được, người không phiền não thời chính đạo lại vô dụng. Do đây nên biết trong đời không có bậc thánh nhân.

Người thông minh này lại nghĩ rằng: Vô minh làm duyên cho hành, nhẫn đến sinh làm duyên cho lão tử, mười hai nhân duyên này tất cả chúng sinh đồng có. Tám thánh đạo tính nó bình đẳng cũng như vậy, lúc một người được, thời tất cả người lẽ ra cũng được, lúc một người tu hành lẽ ra tất cả khổ đều diệt, vì phiền não bình đẳng. Mà nay chẳng đồng chứng đặng, do đây nên biết rằng không có chính đạo.

Người thông minh này lại nghĩ rằng: Các thánh nhân đều có những pháp đồng với phàm phu, như là uống ăn, đi đứng ngồi nằm, ngủ nghỉ, vui cười, đói khát, lạnh nóng, lo buồn sợ sệt. Nếu đã đồng với phàm phu có những việc như vậy, nên biết rằng bậc thánh nhân chẳng chứng được thánh đạo, nếu đã được thánh đạo lẽ ra phải dứt hẳn những việc như vậy. Những việc như vậy nếu đã chẳng dứt, do đây nên biết rằng không thánh đạo.

Người thông minh này lại nghĩ rằng: Thánh nhân có thân thọ vui ngũ dục, cũng mắng nhiếc đánh đập người, cũng tật đố kiêu mạn thọ những sự khổ vui, tạo nghiệp thiện ác, do đây nên biết rằng không có thánh nhân. Nếu có chính đạo lẽ ra đã dứt những việc này, nếu những việc này chẳng dứt nên biết rằng không chính đạo.

Người thông minh này lại nghĩ rằng: Người nhiều lòng từ mẫn gọi là thánh nhân. Do nhân duyên gì gọi là thánh nhân? Nhân nơi thánh đạo mà gọi là thánh nhân. Nếu tính của thánh đạo là từ mẫn, thời nên thương xót tất cả chúng sinh, chẳng cần chờ tu hành rồi mới đặng. Nếu như không từ mẫn cớ sao thánh nhân chứng được thánh đạo lại hay từ mẫn, do đây nên biết trong đời không có thánh đạo.

Người thông minh này lại nghĩ rằng: Tất cả tứ đại chẳng từ nhân duyên sinh. Chúng sinh đồng có tính tứ đại này. Chẳng quán sát chúng sinh đáng đến bờ này, chẳng đáng đến bờ kia, nếu là có thánh đạo, thời tính của thánh đạo lẽ ra cũng như vậy, nhưng nay chẳng phải như vậy, do đây nên biết rằng trong đời không có thánh nhân.

Người thông minh này lại nghĩ rằng: Nếu các bậc thánh nhân có một Niết Bàn thời nên biết rằng không có thánh nhân. Vì Niết Bàn là bất khả đắc. Pháp thường trụ là bất khả đắc chẳng thể lấy chẳng thể bỏ. Nếu các bậc thánh nhân có nhiều Niết Bàn thời là vô thường, vì là pháp có thể đếm được. Niết Bàn nếu là một, lúc một người được thời lẽ ra tất cả đều được. Nếu Niết Bàn là nhiều thời là có chừng ngằn, nếu là có chừng ngắn thời đâu được gọi là thường trụ. Nếu nói rằng thể của Niết Bàn là một, mà người giải thoát là nhiều, như một cây lọng là một mà cọng cánh lá nhiều, lời nói này chẳng đúng nghĩa, vì mỗi người chứng đặng chẳng phải tất cả người chứng đặng, bởi có chừng ngằn lẽ ra là vô thường nếu đã là vô thường thời đâu được gọi là Niết Bàn. Nếu không có Niết Bàn thời ai là bậc thánh nhân? Do đây nên biết rằng không có thánh nhân.

Người thông minh này lại nghĩ rằng: Chính đạo của thánh nhân chẳng phải do nhân duyên mà được. Nếu chính đạo của thánh nhân đã chẳng phải do nhân duyên mà được, cớ sao tất cả chúng sinh chẳng làm thánh nhân. Nếu tất cả người chẳng phải là thánh nhân, thời biết rằng không có thánh nhân và không có thánh đạo.

Người thông minh lại nghĩ rằng: Thánh nhân nói có hai nhân duyên được chính kiến: Một là nghe người khác thuyết pháp, hai là tự mình tư duy. Hai nhân duyên này đã từ duyên sinh, thời duyên này lại từ duyên khác mà sinh, xoay vần mãi như vậy thành ra có lỗi vô cùng. Nếu hai nhân duyên này chẳng từ duyên sinh, thời tất cả chúng sinh do cớ gì mà chẳng đều được.

Lúc người thông minh này suy nghĩ những điều như trên thời có thể dứt mất căn lành.

Này Thiện Nam Tử! Nếu có chúng sinh nào chấp chặt những điều không nhân không quả như vậy người này có thể dứt mất năm căn: Tín, tấn, niệm, định và huệ. Người dứt mất căn lành chẳng phải là người hạ liệt, ngu độn, cũng chẳng phải chư thiên, chẳng phải ba ác đạo. Người phá Tăng cũng như vậy.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn! Người như vậy, lúc nào sẽ có thể sinh căn lành trở lại.

Này Thiện Nam Tử! Người này có hai lúc sinh căn lành trở lại: Lúc mới vào địa ngục và lúc ra khỏi địa ngục.

Này Thiện Nam Tử! Căn lành có ba thứ: Quá khứ, hiện tại và vị lai. Nếu là quá khứ thời tính nó tự diệt, dầu nhân diệt nhưng quả báo chưa thục nên chẳng gọi là dứt quả quá khứ. Vì dứt nhân lành ba đời nên gọi là dứt mất.

- Bạch Thế Tôn! Nếu dứt nhân lành ba đời mà gọi là mất căn lành, người dứt căn lành vẫn có Phật tính, Phật tính này là quá khứ, là hiện tại, là vị lai, hay là khắp cả ba đời? Nếu là quá khứ thế nào gọi là thường. Phật tính là thường trụ nên biết rằng không phải là quá khứ. Nếu là vị lai thế nào gọi là thường? Cớ sao Phật nói rằng tất cả chúng sinh quyết định sẽ được? Nếu quyết định được thời sao lại nói rằng dứt mất? Nếu là hiện tại sao lại là thường? Cớ sao lại nói rằng quyết định có thể thấy?

Đức Như Lai cũng nói rằng Phật tính cũng có sáu: Một là thường, hai là chân, ba là thật, bốn là thiện, năm là tịnh, sáu là có thể thấy. Nếu người dứt mất thiện căn mà có Phật tính thời chẳng được gọi là dứt mất căn lành. Nếu không có Phật tính sao lại nói rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Nếu nói rằng Phật tính cũng có, cũng dứt, thế nào đức Như Lai lại nói Phật tính là thường trụ?

- Này Thiện Nam Tử! Đức Như Lai vì chúng sinh nên có ba thứ giải đáp: Một là đáp quyết định, hai là phân biệt mà đáp, ba là theo lời hỏi mà đáp, bốn là yên lặng mà đáp.

Thế nào là quyết định đáp? Nếu có ai hỏi rằng nghiệp ác cảm quả lành hay quả chẳng lành? Thời nêu quyết định đáp rằng cảm quả chẳng lành. Hỏi thiện nghiệp cũng đáp như vậy. Nếu hỏi đức Như Lai có phải là bậc nhất thiết trí chăng? Thời nên quyết định đáp rằng là bậc nhất thiết trí. Nếu hỏi Phật pháp là thanh tịnh chăng? Thời nên quyết định đáp rằng là thanh tịnh. Nếu hỏi đệ tử của Phật có ăn ở đúng như pháp chăng ? Thời nên quyết định đáp rằng có đúng như pháp mà ở. Đây gọi là quyết định đáp.

Thế nào là phân biệt mà đáp? Như đức Phật giảng nói bốn chân đế. Thế nào là bốn? Là khổ tập diệt đạo. Sao gọi rằng khổ đế? Vì có tám điều khổ nên gọi là khổ đế. Thế nào là tập đế? Vì là nhân của ngũ ấm nên gọi là tập đế. Thế nào là diệt đế? Vì đã dứt hẳn tham sân si nên gọi là diệt đế. Thế nào là đạo đế? Ba mươi bảy pháp trợ đạo gọi đó là đạo đế. Đây gọi là phân biệt mà giải đáp.

Thế nào là theo lời hỏi mà đáp? Hỏi rằng đức Thế Tôn nói những pháp gì là vô thường? Đáp rằng đức Như Lai nói pháp hữu vi là vô thường. Vô ngã cũng như vậy. Hỏi rằng đức Thế Tôn vì những pháp gì mà nói tất cả đốt cháy? Đáp rằng đức Như Lai vì tham, sân, si mà nói tất cả đốt cháy.

Này Thiện Nam Tử! Đức Như Lai có mười trí lực, bốn vô sở úy, ba niệm xứ, Đại Từ Đại Bi, Thủ Lăng Nghiêm v.v…tám muôn ức môn Tam Muội, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, năm trí ấn v.v… ba muôn năm ngàn môn Tam Muội, Kim Cang định v.v…bốn ngàn hai trăm môn Tam Muội, vô lượng vô biên phương tiện Tam Muội, những công đức trên đây là Phật tính của Phật. Phật tính này có bảy điều: Thường, lạc, ngã, tịnh, chân, thật và thiện. Đây gọi là phân biệt mà giải đáp.

Này Thiện Nam Tử! Phật tính của Bồ Tát thân rốt sau có sáu điều: Thường, tịnh, chân, thật, thiện và thiểu kiến. Đây gọi là phân biệt mà giải đáp.

Như trước kia ông hỏi: Người dứt mất căn lành có Phật tính. Người này cũng có Phật tính của Như Lai, cũng có Phật tính của Bồ Tát thân rốt sau. Hai Phật tính này vì chướng ngại vị lai nên được gọi là không, vì rốt ráo sẽ được nên gọi là có. Đây gọi là phân biệt mà đáp.

Phật tính của Như Lai chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai.

Phật tính của Bồ Tát thân rốt sau là hiện tại và vị lai: Vì có thể thấy phần ít nên gọi là hiện tại, vì chưa thấy đầy đủ nên gọi là vị lai.

Đức Như Lai lúc chưa chứng được vô thượng Bồ Đề, về nhân Phật tính cũng là quá khứ, hiện tại và vị lai. Về quả Phật tính thời chẳng như vậy: Có là ba đời, có chẳng phải ba đời.

Phật tính của Bồ Tát thân rốt sau về nhân cũng là ba đời, về quả cũng như vậy. Đây gọi là phân biệt mà đáp.

Phật tính của Cửu Trụ Bồ Tát có sáu điều : Thường, thiện, chân, thật, tịnh, khả kiến. Nhân Phật tính cũng là ba đời, quả cũng như vậy. Đây gọi là phân biệt mà nói.

Bát Trụ Bồ Tát xuống đến bậc Lục Trụ, Phật tính có năm điều: Chân, thật, tịnh, thiện và khả kiến. Nhân Phật tính cũng là ba đời, quả cũng như vậy. Đây gọi là phân biệt mà đáp.

Ngũ Trụ Bồ Tát xuống đến bậc Sơ Trụ, Phật tính có năm điều: Chân, thật, tịnh, khả kiến và thiện bất thiện.

Này Thiện Nam Tử! Năm thứ Phật tính, sáu thứ Phật tính, bảy thứ Phật tính, người dứt mất căn lành quyết sẽ được nên gọi là có, đây gọi là phân biệt mà đáp.

Nếu nói rằng người dứt mất căn lành quyết định có Phật tính quyết định không Phật tính. Đây gọi là yên lặng mà đáp.

- Bạch Thế Tôn! Tôi nghe rằng chẳng đáp mới gọi là yên lặng mà đáp. Nay cớ gì đức Như Lai đáp mà lại gọi là yên lặng đáp?

Này Thiện Nam Tử! Ta cũng chẳng nói ra, để đó chẳng giải đáp nên gọi là yên lặng mà đáp.

Này Thiện Nam Tử! Yên lặng đáp như vậy lại có hai thứ: Một là ngăn dứt, hai là chẳng chấp trước. Do nghĩa này nên được gọi là yên lặng đáp.

- Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói, thế nào gọi rằng nhân Phật tính cũng là ba đời, quả cũng là ba đời, lại chẳng phải là ba đời?

Này Thiện Nam Tử! Ngũ ấm có hai thứ: Một là nhân hai là quả. Nhân ngũ ấm này cũng là ba đời, quả ngũ ấm này cũng là ba đời mà cũng chẳng phải là ba đời.

Này Thiện Nam Tử! Tất cả những kiết sử vô minh phiền não đều là Phật tính, vì là nhân của Phật tính. Từ vô minh, hành và các phiền não mà được ngũ ấm lành, đây gọi là Phật tính. Từ ngũ ấm lành nhẫn đến chứng đặng vô thượng Bồ Đề. Do đây nên trong kinh ta nói trước rằng Phật tính của chúng sinh như sữa lẫn lộn trong máu. Máu là nói vô minh, hành v.v… tất cả những phiền não. Sữa là nói ngũ ấm lành. Nên ta nói rằng do từ những phiền não và ngũ ấm lành mà chứng được vô thượng Bồ Đề như thân chúng sinh đều do từ tinh huyết mà được thành, Phật tính cũng như vậy.

Bậc Tu Đà Hoàn và Tư Đà Hàm dứt phần ít phiền não, Phật tính của những bậc này như sữa. Bậc A Na Hàm Phật tính như lạc. Bậc A La Hán Phật tính như sinh tô. Từ bậc Bích Chi Phật đến Thập Trụ Bồ tát, Phật tính như thục tô. Phật tính của đức Như Lai như đề hồ.

Này Thiện Nam Tử! Vì phiền não hiện tại chướng ngăn làm cho chúng sinh chẳng thấy được Phật tính. Như trong núi Hương Sơn có cỏ nhẫn nhục chẳng phải tất cả bò đều có thể được ăn. Phật tính cũng như vậy. Đây gọi là phân biệt và giải đáp.

- Bạch Thế Tôn! Năm thứ, sáu thứ, bảy thứ Phật tính, nếu là đến vị lai sẽ có, tại sao nói rằng người dứt căn lành có Phật tính?

Này Thiện Nam Tử! Như các chúng sinh có nghiệp quá khứ, do nghiệp này mà chúng sinh thọ lấy quả báo hiện tại. Có nghiệp vị lai vì chưa sinh nên trọn chẳng thành quả. Chúng sinh hiện tại có phiền não, nếu không phiền não thời tất cả chúng sinh lẽ ra phải thấy rõ Phật tính hiện tại. Do đây nên người dứt căn lành do phiền não đời hiện tại nên có thể dứt căn lành, do năng lực Phật tính đời vị lai nên căn lành sinh trở lại.

- Bạch Thế Tôn! Đời vị lai thế nào có thể sinh căn lành?

Này Thiện Nam Tử! Như ngọn đèn và mặt trời dầu lại là vị lai mới sáng nhưng cũng phá tối tăm. Tính vị lai có thể sinh ra chúng sinh, Phật tính đời vị lai cũng như vậy. Đây gọi là phân biệt mà giải đáp.

- Bạch Thế Tôn! Nếu nói ngũ ấm là Phật tính tại sao nói rằng Phật tính của chúng sinh chẳng phải trong chẳng phải ngoài.

Này Thiện Nam Tử! Cớ sao quên mất như vậy. Trước kia ta chẳng nói rằng Phật tính của chúng sinh là trung đạo ư?

- Bạch Thế Tôn! Thiệt ra tôi chẳng quên lời Phật dạy. Chỉ vì chúng sinh chẳng hiểu được trung đạo này nên bạch hỏi đức Phật như vậy.

Này Thiện Nam Tử! Chỗ mà chúng sinh chẳng hiểu được chính đó là trung đạo. Có lúc hoặc có hiểu hoặc có người chẳng hiểu. Ta vì muốn làm cho chúng sinh được hiểu rõ nên nói Phật tính của chúng sinh chẳng phải trong chẳng phải ngoài. Vì kẻ phàm phu cho rằng Phật tính ở trong ngũ ấm, như trái cây đựng trong chậu. Cũng có kẻ cho rằng rời ngoài ngũ ấm mà có Phật tính, như hư không. Do đây nên đức Như Lai nói nghĩa trung đạo: Phật tính của chúng sinh chẳng phải là sáu căn ở trong, chẳng phải là sáu trần ở ngoài. Vì hiệp trong và ngoài nên gọi là trung đạo. Do đây đức Như Lai nói rằng: Phật tính chẳng phải trong chẳng phải ngoài, nên gọi là trung đạo, đây là phân biệt mà giải đáp.

Này Thiện Nam Tử! Thế nào gọi là chẳng phải trong chẳng phải ngoài?

Này Thiện Nam Tử! Có người nói rằng Phật tính chính là ngoại đạo, vì các bậc đại Bồ Tát trải qua vô lượng kiếp ở trong ngoại đạo, mà dứt phiền não điều phục tâm của mình, giáo hoá vô lượng chúng sinh, rồi sau mới được vô thượng Bồ Đề.

Hoặc có người cho rằng Phật tính chính là nội đạo. Vì đại Bồ Tát dầu trong vô lượng kiếp tập học ngoại đạo, nhưng nếu rời nội đạo thời chẳng thể được vô thượng Bồ Đề.

Đức Như Lai vì ngăn hai thứ chấp trước này nên nói rằng Phật tính chẳng phải trong chẳng phải ngoài, cũng gọi là trong ngoài, đây là trung đạo.

Có người nói Phật tính chính là Kim Cang của Như Lai: Ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Có người nói Phật tính chính là mười trí lực, bốn món vô sở úy, đại từ đại bi, tam niệm xứ, Thủ Lăng Nghiêm v.v… tất cả môn Tam Muội, vì do những Tam Muội này mà sinh ra thân Kim Cang ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Đức Như Lai vì ngăn hai sự chấp trước này nên nói rằng Phật tính chẳng phải trong, chẳng phải ngoài cũng là trong ngoài, đây gọi là trung đạo.

Này Thiện Nam Tử! Có người cho rằng Phật tính chính là trong tâm khéo tư duy, vì rời khéo tư duy thời chẳng thể được vô thượng Bồ Đề. Có người nói rằng Phật tính chính là do nghe pháp với người khác, vì nghe pháp với người khác thời có thể trong tâm khéo tư duy, nếu chẳng nghe pháp thời không tư duy.

Do đây nên Như Lai vì ngăn hai sự chấp trước này nên nói Phật tính chẳng phải trong chẳng phải ngoài, cũng là trong ngoài, đây gọi là trung đạo.

Lại có người nói Phật tính là ngoài nghĩa là Đàn Ba La Mật. Từ Đàn Ba La Mật mà chứng được vô thượng Bồ Đề. Có người nói Phật tính là trong nghĩa là năm môn Ba La Mật, vì rời năm môn này thời không có nhân quả Phật tính.

Do đây nên Như Lai vì ngăn hai thứ chấp trước này mà nói Phật tính chẳng phải trong chẳng phải ngoài, đây gọi là trung đạo.

Này Thiện Nam Tử! Có người nói Phật tính ở nơi trong, như viên bảo châu trtên trán của lực sĩ, vì thường, lạc, ngã, tịnh như bảo châu. Có người nói Phật tính ở nơi ngoài như kho báu của bần nữ, vì do phương tiện mà được thấy.

Vì ngăn hai thứ chấp trước này nên đức Như Lai nói rằng Phật tính chẳng phải trong, chẳng phải ngoài cũng là trong ngoài, đây gọi là trung đạo.

Này Thiện Nam Tử! Phật tính của chúng sinh chẳng phải có chẳng phải không. Vì Phật tính dầu là có nhưng chẳng phải như hư không. Vì hư không của thế gian dầu dùng vô lượng thiện xảo phương tiện cũng chẳng thể thấy được, còn Phật tính thời có thể thấy, do đây nên Phật tính dầu là có nhưng chẳng phải như hư không.

Phật tính dầu là không nhưng chẳng đồng như sừng thỏ. Vì lông rùa, sừng thỏ dầu dùng vô lượng thiện xảo phương tiện cũng chẳng thể sinh lên được, còn Phật tính thời có thể sinh. Do đây nên Phật tính chẳng phải có, chẳng phải không, cũng là có, cũng là không.

Thế nào gọi là có? Tất cả chúng sinh đều có chẳng dứt chẳng diệt, dường như ngọn đèn, mãi đến chứng đặng vô thượng Bồ Đề, nên gọi là có Phật tính.

Thế nào gọi là không? Tất cả chúng sinh hiện tại chưa có đủ tất cả Phật pháp thường, lạc, ngã, tịnh nên gọi là không Phật tính.

Vì có và không hiệp lại chính là trung đạo, nên đức Như Lai nói Phật tính chúng sinh chẳng phải có, chẳng phải không.

Này Thiện Nam Tử! Như có người hỏi trong hột giống này có trái hay không? Tất phải đáp rằng cũng có cũng không. Vì ngoài hột giống thời không thể sinh ra trái nên gọi là có, còn hột giống chưa mọc mọng nên gọi rằng không. Do nghĩa này nên nói cũng có cũng không. Vì thời tiết có khác, nhưng thể chất của hột giống là một. Phật tính của chúng sinh cũng như vậy. Nếu nói rằng trong chúng sinh riêng có Phật tính thời không đúng nghĩa. Vì chúng sinh là Phật tính, Phật tính là chúng sinh, chỉ do thời gian có tịnh và bất tịnh sai khác.

Này Thiện Nam Tử! Nếu có người hỏi hột này có thể sinh trái chăng, trái này có thể sinh hột chăng? Tất phải đáp rằng cũng sinh cũng chẳng sinh.

- Bạch Thế Tôn! Như người đời nói rằng trong sữa có chất lạc, nghĩa này như thế

nào?

Này Thiện Nam Tử! Nếu nói trong sữa có chất lạc thời là chấp trước. Nếu nói trong sữa không chất lạc thời là hư vọng. Tất phải nói rằng cũng có cũng không. Từ sữa sinh ra chất lạc: Nhân là sữa, quả là lạc, đây gọi là có. Màu sắc cùng mùi vị đều khác nhau, ăn dùng cũng chẳng đồng: Bệnh nóng thời dùng sữa, bệnh lạnh thời dùng lạc, sữa sinh bệnh lạnh, lạc sinh bệnh nóng.

Nếu nói trong sữa có tính của lạc, sữa là lạc, lạc là sữa, hai thứ đồng một tính, nhân duyên gì mà sữa lại có trước, còn lạc chẳng sinh ra trước? Nếu có nhân duyên tại sao tất cả người đời chẳng nói? Nếu không nhân duyên cớ sao lạc chẳng sinh ra trước? Nếu lạc chẳng sinh ra trước thời ai làmra có thứ tự : Sữa, lạc, sinh, tô, thục tô, đề hồ? Do đây nên biết rằng chất lạc trước không có nay mới có, nếu là trước không nay có thời là pháp vô thường.

Này Thiện Nam Tử! Nếu nói rằng trong sữa có chất lạc có thể sinh ra lạc, trong nước không có chất lạc nên chẳng sinh ra lạc, lời này không đúng nghĩa. Vì nước cỏ cũng có tính chất của sữa và lạc, vì do nước cỏ mà sinh ra sữa và lạc. Nếu nói trong sữa quyết định có chất lạc, còn nước cỏ không chất lạc, lời này gọi là hư vọng, vì tâm chẳng bình đẳng nên gọi là hư vọng.

Này Thiện nam Tử! Nếu nói trong sữa quyết định có chất lạc, thời lẽ ra trong chất lạc cũng quyết định có chất sữa. Cớ gì trong sữa sinh ra lạc mà trong lạc chẳng sinh ra sữa? Nếu là không duyên cớ thời nên biết rằng chất lạc này trước không mà nay có. Do đây nên người trí phải nói rằng trong sữa chẳng phải có chất lạc chẳng phải không chất lạc.

Này Thiện Nam Tử! Do đây nên đức Như Lai từng nói trong khế kinh rằng :Nếu cho tất cả chúng sinh quyết định có Phật tính thời gọi là chấp trước, nếu cho không Phật tính thời gọi là hư vọng. Người trí nên nói rằng : Phật tính của chúng sinh cũng có cũng không.

Này Thiện Nam Tử! Do bốn pháp hòa hiệp mà có nhãn thức: Nhãn căn, sắc trần, ánh sáng, tác ý. Tính nhãn thức này chẳng phải là nhãn căn, chẳng phải sắc trần, chẳng phải ánh sáng, chẳng phải tác ý. Do bốn pháp này hòa hiệp mà nhãn thức được sinh. Nhãn thức như vậy là trước không mà nay có, đã có trở lại không. Do đây nên biết rằng nhãn thức vốn không có tính. Chất lạc ở trong sữa cũng như vậy.

Nếu nói rằng trong nước không chất lạc nên chẳng xuất sinh ra lạc, còn trong sữa sinh ra lạc, nên trong sữa quyết định có chất lạc. Lời nói trên đây không đúng nghĩa. Vì tất cả pháp: Nhân khác, quả khác, cũng chẳng phải một nhân sinh tất cả quả, chẳng phải tất cả quả từ một nhân sinh. Như do bốn pháp sinh ra nhãn thức, chẳng nên nói rằng từ bốn pháp này phải sinh ra nhĩ thức hay tỷ thức.

Này Thiện Nam Tử! Rời các phương tiện thời không thể được chất lạc trong sữa, cũng không thể từ chất lạc sinh ra chất tô. Do đây nên cần phải có phương tiện. Người trí chẳng nên có quan niệm rằng rời các phương tiện mà được chất lạc từ nơi sữa. Được sinh tô cũng như vậy.

Do đó nên trong khế kinh ta từng nói: Vì “nhân” sinh nên có pháp, vì “nhân” diệt nên không pháp.

Này Thiện Nam Tử! Như muối tính chất là mặn có thể làm cho vật chẳng phải mặn thành mặn. Nếu vật chẳng phải mặn mà trước có tính chất mặn, cớ sao người đời cho rằng chẳng phải là muối ư! Nếu trước không mặn thời nên biết rằng trước không mà nay có, do các duyên khác mà thành mặn.

Nếu nói rằng tất cả vật chẳng mặn đều có tính chất mặn vì quá ít nên chẳng biết, do tính chất quá ít này nên muối có thể làm cho vật ấy thành mặn, nếu vốn không tính chất mặn thời dầu có muối cũng chẳng thể làm thành mặn được. Như hột giống tự nó có tứ đại, duyên nhờ tứ đại ngoài mà nó được tăng trưởng: Nẩy mầm, lên cây, đâm chồi ra lá, tính chất của muối cũng vậy. Lời nói trên đây không đúng nghĩa, vì vật chẳng mặn nếu trước đã có tính chất mặn, muối lẽ ra cũng có tính chất chút ít chẳng mặn. Muối này nếu có hai tính chất như vậy, duyên cớ gì rời vật chẳng mặn nó không thể riêng dùng? Do đây nên biết muối vốn không có hai tính. Như muối không có hai tính, tất cả vật chẳng mặn cũng không có hai tính như vậy.

Nếu nói rằng tứ đại ngoài có năng lực làm tăng trưởng tứ đại trong. Lời nói này không đúng nghĩa, vì là theo thứ tự mà nói chẳng phải từ phương tiện: Trong sữa được chất lạc, chất sinh tô, nhẫn đến tất cả pháp đều cũng chẳng phải do phương tiện mà được, tứ đại cũng như vậy. Nếu nói từ tứ đại trong tăng trưởng tứ đại ngoài. Như trái Thi lợi sa, từ trước không hình chất, lúc gặp sao Mão mọc thời sinh trái lớn đủ năm tấc. Trái này thiệt chẳng do nơi tứ đại ngoài mà tăng trưởng.

Này Thiện Nam Tử! Như mười hai bộ kinh của ta nói: Hoặc tùy tự ý mà nói, hoặc tùy tha ý mà nói, hoặc tùy tự tha ý mà nói.

Thế nào gọi là tùy tự ý mà nói? Như năm trăm Tỳ Kheo hỏi Xá Lợi Phất: Bạch Đại Đức! Phật nói nhân của thân là những gì? Xá Lợi Phất nói : Chư Đại Đức cũng đều được chính giải thoát tự mình nên biết đó, duyên cớ gì mà hỏi như vậy? Có Tỳ Kheo nói: Bạch Đại Đức! Lúc tôi chưa được chính giải thoát, cho rằng vô minh là nhân của thân, lúc quán sát như vậy chứng được quả A La Hán.

Lại có Tỳ Kheo nói: Bạch Đại Đức! Lúc tôi chưa được chính giải thoát, cho rằng thọ và vô minh là nhân của thân, lúc quán sát như vậy đặng quả A La Hán.

Hoặc có Tỳ Kheo nói: Hành, thức, danh, sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, ẩm thực, ngũ dục là nhân của thân.

Lúc đó năm trăm Tỳ Kheo mỗi người tự nói chỗ hiểu biết của mình rồi, bèn cùng nhau đến đỉnh lễ chân Phật, đi nhiễu ba vòng rồi ngồi qua một bên. Mỗi người tự đem chổ hiểu của mình như đã nói ở trên mà bạch với Phật. Xá Lợi Phất bạch rằng: Thế Tôn! Những Tỳ Kheo này ai là chính thuyết, ai là không chính thuyết.

Phật nói: Lành thay! Lành thay! Tất cả Tỳ Kheo đây đều là chính thuyết cả.

Xá Lợi Phất bạch rằng: Thế Tôn! Ý của Đức Phật thế nào?

Này Xá Lợi Phất! Ta vì chúng sinh trong cõi dục mà nói cha mẹ là nhân của thân.

Những kinh như vậy gọi là tùy tự ý mà nói.

Thế nào gọi là tùy tha ý mà nói? Như Bà Tra La Trưởng giả đến hỏi ta rằng: Thưa Cù Đàm! Ngài có biết ảo thuật chăng? Nếu biết ảo thuật thời ngài là nhà đại ảo thuật, còn nếu không biết thời ngài chẳng phải là nhất thiết trí.

Phật nói: Này Trưởng giả! Người biết ảo thuật có gọi là người ảo thuật chăng?

Trưởng giả nói: Đúng vậy! Đúng vậy! Người biết ảo thuật chính là người ảo thuật.

Phật nói: Này Trưởng giả! Trong nước Xá Vệ vua Ba Tư Nặc có gã Chiên Đà La tên là Khí Hứ, ông có biết không?

Trưởng giả thưa rằng: Từ lâu tôi đã biết người ấy.

Phật nói: Từ lâu ông đã biết người ấy mà ông có thể chính là Chiên Đà La không ?

Trưởng giả thưa: Tôi dầu biết gã Chiên Đà La ấy, nhưng thân của tôi chẳng phải Chiên Đà La.

Phật nói: Ông biết được nghĩa ấy: Người biết Chiên Đà La chẳng phải là Chiên Đà La. Nay cớ sao ta chẳng được biết ảo thuật mà chẳng phải là ảo thuật? Này Trưởng giả, thiệt ra ta biết ảo thuật, biết người ảo thuật, biết quả báo ảo thuật, biết nghề ảo thuật. Ta biết sát nghiệp, biết người sát nghiệp, biết quả báo sát nghiệp, biết giải thoát sát nghiệp, nhẫn đến biết tà kiến, biết người tà kiến, biết quả báo tà kiến, biết giải thoát tà kiến.

Nếu Trưởng giả nói người chẳng phải ảo thuật gọi là người ảo thuật, người chẳng phải tà kiến gọi là người tà kiến, thời mắc vô lượng tội.

Trưởng giả nói: Thưa Cù Đàm! Cứ như lời của ngài nói thời tôi mắc tội rất lớn. Nay tất cả của cải của tôi, tôi đem dâng cho ngài tất cả. Mong ngài chớ cho vua Ba Tư Nặc biết việc của tôi.

Phật nói: Này Trưởng giả! Tội của ông bất tất mất của. Ông sẽ do tội này mà phải bị đọa trong ba ác đạo.

Trưởng giả nghe nói đến ba ác đạo, kinh sợ bạch Phật rằng: Thưa Thánh Nhân! Nay tôi vì quên sót mà mắc lấy tội lớn. Thánh nhân là bậc nhất thiết trí tất là biết rõ con đường giải thoát. Nay tôi phải thế nào để thoát khỏi địa ngục, ngạ quỉ và súc sinh?

Lúc đó đức Phật giảng giải về bốn lý chân đế. Nghe xong trưởng giả chứng được quả Tu Đà Hoàn. Trong lòng hổ thẹn hướng về đức Phật mà sám hối: Tôi vốn ngu si, đức Phật không phải người ảo mà nói là ảo. Ngày nay tôi xin quy y Tam Bảo.

Đức Phật nói: Lành thay! Lành thay!

Đây gọi là tùy tha ý mà nói.

Thế nào gọi là tùy tự tha ý mà nói? Như ta từng nói: Trong tất cả thế gian, người trí nói có thời ta cũng nói có, người trí nói không thời ta cũng nói không.

Người trí trong đời nói sự vui ngũ dục có vô thường, khổ, vô ngã, đáng dứt diệt, thời ta cũng nói là có như vậy.

Người trí trong đời nói không bao giờ có vui ngũ dục, mà có thường, lạc, ngã, tịnh, thời ta cũng nói là không bao giờ có.

Đây gọi là tùy tự tha ý mà nói.

Này Thiện Nam Tử! Như ta nói bậc Thập Trụ Bồ Tát thấy Phật tính một phần ít. Đây gọi là tùy tha ý mà nói.

Thế nào gọi là thấy phần ít? Thập Trụ Bồ Tát được ba ngàn môn Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội v.v…nên biết rõ mình sẽ được vô thượng Bồ Đề, mà chẳng thấy tất cả chúng sinh quyết định được vô thượng Bồ Đề, do đây nên ta nói bậc Thập Trụ Bồ Tát thấy Phật tính phần ít.

Này Thiện Nam Tử! Ta thường tuyên nói: Tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Đây gọi là tùy tự ý mà nói.

Tất cả chúng sinh chẳng đoạn chẳng diệt mãi đến chứng được vô thượng Bồ Đề. Đây gọi là tùy tự ý mà nói.

Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, vì phiền não che ngăn nên chẳng thể thấy được. Ta nói như vậy, ông cũng nói như vậy. Đây gọi là tùy tự tha ý mà nói.

Này Thiện Nam Tử! Đức Như Lai có lúc vì một pháp mà nói vô lượng pháp. Như trong khế kinh nói: Tất cả phạm hạnh nhân nơi thiện tri thức. Tất cả phạm hạnh dầu có vô lượng nhân, nhưng nói thiện tri thức thời đã nhiếp hết cả.

Như ta từng nói: Tất cả ác hạnh nhân nơi tà kiến. Tất cả ác hạnh dầu có vô lượng nhân nhưng nói tà kiến thời đã nhiếp hết cả.

Hoặc như ta nói: Tín tâm là nhân của vô thượng Bồ Đề, dầu Bồ Đề có vô lượng nhân, nhưng nói tín tâm thời đã nhiếp hết cả.

Này Thiện Nam Tử! Dầu đức Như Lai nói vô lượng pháp là Phật tính, nhưng chẳng rời ấm, nhập, giới.

Này Thiện-nam-tử! Như nơi ngã tư đường có người đựng đầy đồ ăn thơm ngon trong chậu, trong bát, bày ra để bán. Có người khách từ xa đến quá đói, thấy đồ ăn ấy thơm ngon, liền hỏi đây là vật gì? Người bán nói: Đây là đồ ăn thơm ngon, nếu ai ăn thứ này, thời đặng sắc tốt, sức mạnh, có thể hết đói, hết khát và đặng thấy chư Thiên. Nhưng chỉ có một tai hại là sẽ chết. Người khách nghe xong nghĩ rằng: Nay tôi chẳng dùng sắc đẹp, sức mạnh, thấy chư Thiên, vì tôi chẳng muốn chết. Nghĩ xong hỏi rằng: Ăn vật thực này nếu phải chết sao ông lại đem bán.

Người bán đáp: Những người có trí không ai bằng lòng mua. Chỉ có kẻ ngu, chẳng biết việc này, họ tham ăn nên họ trả giá đắt cho tôi.

Này Thiện-nam-tử! Đại-Bồ-Tát cũng như vậy, chẳng nguyện sinh cõi trời, đặng sắc đẹp, đặng sức mạnh, thấy chư Thiên, vì sinh cõi trời chẳng khỏi những khổ não. Kẻ phàm phu ngu si sinh chỗ nào cũng đều tham luyến vì họ chẳng thấy gìa, bệnh, chết.

Này Thiện-nam-tử! Ví như cây độc, gốc rễ cũng có thể giết người, thân cây, vỏ, bông, trái, hột đều cũng có thể giết người. Tất cả thân ngũ ấmtrong hai mươi lăm cõi đều có thể hại chúng sinh cũng như vậy.

Này Thiện-nam-tử! Ví như phân nhơ, nhiều hay ít đều hôi cả. Cũng vậy, thọ sinh dầu sống lâu tám muôn tuổi hay mười tuổi cũng đều khổ não cả.

Này Thiện-nam-tử! Ví như hầm sâu nguy hiểm, lấy cỏ che trên miệng hầm, bờ bên kia của hầm có mạch cam-lồ, người nào được ăn chất cam lồ, sẽ sống lâu ngàn năm không bệnh tật, an ổn , khoan khoái. Kẻ ngu si tham chất cam lồ, chẳng biết dưới đó có hầm sâu, bèn chạy đến lấy, chẳng ngờ trật chân té xuống hầm mà chết. Người trí biết sự nguy hiểm, nên không đến lấy chất cam-lồ.

Đại-Bồ-Tát cũng như vậy còn chẳng muốn nhận lấy vật thực thượng diệu cõi trời huống là tong loài người. Kẻ phàm phu bèn ở nơi địa ngục nuốt hoàn sắt, huống là thức ăn thượng diệu cõi trời cõi người mà có thể chẳng ăn.

Này Thiện-nam-tử! Do những điều thí dụ như vậy, ngoài ra còn vô lượng thí dụ khác, nên biết thọ sinh thiệt là rất khổ.

Đây gọi là Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sát sinh là khổ.

Này Thiện-nam-tử! Đại-Bồ-tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sát lão là khổ như thế nào?

Sự già yếu hay làm ho hen, ngăn nghẹn hơi, đưa lên, có thể làm mất sức mạnh, trí nhớ kém, sự tráng kiện không còn, mất sự an vui thơ thới, khoan khoái. Tuổi già hay làm lưng còm, mỏi nhọc, lười biếng, bị người khi dể.

Này Thiện-nam-tử! Ví như hoa sen nở tốt đầy trong ao nước rất đáng ưa thích, gặp trận mưa đá, tất cả đều hư nát. Cũng vậy, tuổi già có thể phá hoại tráng kiện, sắc đẹp.

Này Thiện-nam-tử! Ví như quốc vương có một trí thần dùng binh giỏi. Có vua nước địch chống cự chẳng thuận hảo. Quốc vương sai trí thần đem binh qua đánh, bắt vua nước nghịch mang về dưng cho quốc vương. Cũng vậy, tuổi già bắt được tráng kiện, sắc đẹp đem giao cho tử vương.

Này Thiện-nam-tử! Ví như trục xe đã gãy, xe đó không còn dùng được. Cũng vậy, già suy thời không còn dùng được vào việc gì.

Này Thiện-nam-tử! Như nhà giàu to có nhiều của báu: Vàng, bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não. Có bọn cướp nếu vào đặng nhà đó thời có thể cướp giật hết cả. Cũng vậy, tuổi tráng kiện và sắc đẹp thường bị giặc già suy cướp giật.

Này Thiện-nam-tử ! Ví như người nghèo tham thức ăn ngon, y phục mịn màng, dầu có hy vọng nhưng không thể được. Cũng vậy, tuổi già suy dầu có tâm than, muốn hưởng thọ ngũ dục sung sướng mà chẳng thể đặng.

Này Thiện-nam-tử! Như con rùa ở trên đất cao lòng nó thường nghĩ đến nước. Cũng vậy, người đời đã già suy khô héo mà lòng họ thường nhớ tưởng những khoái lạc ngũ dục thuở tráng kiện.

Này thiện-nam-tử! Như mùa thu ai cũng ưa ngắm hoa sen nở, đến khi hoa tàn héo, mọi người đều không thích. Cũng vậy, sự tráng kiện, sắc đẹp mọi người đều ưa thích, đến khi già suy ai cũng nhàm ghét.

Này thiện-nam-tử! Ví như cây mía, sau khi bị ép, bã xác không còn vị ngọt. Cũng vậy, tráng kiện sắc đẹp đã bị già ép, thời không có ba thứ vị: Một là vị xuất gia, hai là vị đọc tụng, ba là vị tọa thiền.

Này Thiện-nam-tử! Ví như mặt trăng tròn ban đêm thời tỏ sáng, ban ngày thời không như vậy. Cũng vậy, tráng kiện thời hình mạo nở nang xinh đẹp, già thời suy yếu, thân thể và tinh thần kém suy.

Này Thiện-nam-tử! ví như có nhà vua thường dùng chính pháp cai trị nhân dân, chân thật, không lừa dối, từ bi ưa bố thí. Thuở đó nhà vua bị nước địch xâm lăng đánh bại, bèn lưu vong đến nước khác. Nhân dân trong nước kia thấy nhà vua đều cảm thương nói rằng: Đại-vương ngày trước dùng chính pháp trị nước chẳng uổng lạm bá tính, thế sao nay lại lưu vong đến đây. Cũng vậy, loài người đã bị già suy làm bại hoại, thời thường tán thán sự nghiệp đã làm thuở tráng kiện.

Này Thiện-nam-tử! Ví như tim đèn dầu nhờ mỡ dầu nhưng mỡ dầu sẽ hết, thế chẳng lâu dài. Cũng vậy, thân người dầu nhờ cậy sự tráng kiện, nhưng tráng kiện phải trải qua già suy, đâu còn được dùng lâu.

Này Thiện-nam-tử! Ví như con sông cạn khô không có thể lợi ích cho ngưới, cho phi nhân, chim thú. Cũng vậy, thân người bị già suy khô héo, không còn làm được việc gì, chẳng thể có lợi ích.

Này Thiện-nam-tử! Ví như cây cheo leo bờ sông, nếu gặp gió to, ắt sẽ đổ ngã. Như vậy đến tuổi già ắt phải chết, thế chẳng thể còn được.

Này Thiện-nam-tử! Như trục xe đã gãy, không thể chở chuyên. Cũng vậy, già suy không thể học hỏi tất cả pháp lành.

Này Thiện-nam-tử! Như trẻ thơ bị người khinh khi. Cũng vậy, già suy thường bị người khinh hủy.

Này Thiện-nam-tử! Do những điều dụ như vậy cùng vô lượng thí dụ khác nên biết sự già thiệt là rất khổ.

Đây gọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sát già là khổ.

Này Thiện-nam-tử! Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sát bệnh khổ như thế nào?

Ví như mưa đá làm hại mạ lúa. Cũng vậy, tật bệnh có thể phá hoại tất cả những sự an ổn vui vẻ.

Như người có oán thù , tâm thường lo rầu sợ sệt. Cũng vậy, tất cả chúng sinh thường bị bệnh khổ, lo rầu không yên.

Ví như có người hình dung xinh đẹp, Vương-phi tâm dục yêu thương, sai sứ đòi đến để cùng giao thông. Vua bắt đặng, liền truyền lịnh khoét một mắt,cắt một vành tai, chặt một tay, một chân, bấy giờ người đó hình dung đổi khác bị người nhờm gớm khinh rẻ. Cũng vậy, thân người trước thời dung mạo tươi tốt, tai mắt đầy đủ, đã bị bệnh khổ hành hạ, thời xấu xa bị người nhờm gớm.

Như cây chuối, cây tre, cây lau, cây la, hễ có con, có trái thì chết. Cũng vậy, người có bệnh thời chết.

Như vua Chuyển-Luân, đại thần, chủ binh thường làm tiền đạo đi trước, nhà vua theo sau cũng như chúa cá, chúa kiến, chúa ốc, chúa trâu, thương chủ, lúc ở trước chúng mà đi, thời toàn chúng thảy đều đi theo không rời. Cũng vậy, sự chết thường theo sát bệnh khổ không rời.

Này Thiện-nam-tử! Nhân duyên của bệnh làm cho khổ não, rầu lo, buồn than, thân tâm không an ổn. Hoặc bị kẻ giặc cướp bức hại, trái nổi bể hư, phá hoại cầu cống, đều cũng có thể cướp giật mạng sống. Bệnh lại có thể phá hoại sự tráng kiện, sắc đẹp, thế lực, an vui, mất lòng tàm quý, có thể làm cho thân tâm xót xa bức rức.

Do những điều dụ đó và vô lượng thí dụ khác, nên biết bệnh rất là khổ não.

Đây gọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sát bệnh khổ.

Này Thiện-nam-tử! Thế nào là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại- Niết-Bàn quán sát tử khổ? Sự chết có thể đốt cháy tiêu diệt. Như hỏa tai khởi lên có thể đốt cháy tất cả, chỉ trừ cõi trời nhị thiền trở lên, vì thế lực của hỏa tai chẳng đến được. Cũng vậy, sự chết có thể tiêu diệt tất cả, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-bàn vì thế lực của sự chết không đến được.

Như lúc thủy tai khởi lên, tất cả đều trôi, đều ngập, chỉ trừ cõi tam-thiền trở lên, vì thế lực của thủy tai chẳng đến được. Cũng vậy, sự chết làm chìm mất tất cả, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.

Như lúc phong tai khởi lên, có thể thổi tan tất cả, chỉ trừ cõi tứ thiền, vì thế lực của phong tai chẳng đến được. Cũng vậy, sự chết có thể tiêu diệt tất cả, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.

Ca-Diếp-Bồ-Tát bạch Phật: “Thế-Tôn! Cõi Tứ-thiền kia do cớ gì mà gió không thổi đến, nước chẳng ngập đến, lửa chẳng cháy đến?”.

Này Thiện-nam-tử! Cõi Tứ-Thiền kia không có tất cả quá hoạn trong thân và ngoại cảnh.

Cõi Sơ- Thiền có quá hoạn: Trong có giác quán, ngoài có hỏa tai.

Cõi Nhị-Thiền có quá hoạn: Trong có vui mừng, ngoài có thủy tai.

Cõi Tam-Thiên có quá hoạn: Trong có hơi thở, ngoài có phong tai.

Cõi Tứ-Thiền trong ngoài đều không quá hoạn, nên ba thứ tai họa lớn chẳng thể đến được.

Đại-Bồ-Tát cũng như vậy, an trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn, trong ngoài đều không tất cả quá hoạn, nên sự chết chẳng đến được.

Lại này Thiện-nam-tử: Như Kim-Súy-Điểu có thể nuốt, có thể tiêu tất cả loài rồng, cá và châu báu, vàng, bạc vân vân, chỉ trừ chất kim cương không tiêu được. Cũng vậy, sự chết có thể nuốt, có thể tiêu tất cả chúng sinh, chỉ không tiêu được Đại-Bồ-tát trụ nơi Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn.

Lại này Thiện-nam-tử! Ví như những cỏ cây ở bờ sông, nước lụt dưng lên đều trôi theo dòng vào biển lớn, chỉ trừ cây dương liễu, vì thứ cây này mềm dẽo. Cũng vậy, tất cả chúng sinh đều trôi lăn vào biển chết, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.

Lại này Thiện-nam-tử! Như thần Na-La-Diên có thể hàng phục tất cả lực sĩ, chỉ trừ gió to, vì gió to vô ngại. Cũng vậy, sự chết có thể hàng phục tất cả chúng sinh, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn, vì bậc này vô ngại.

Lại này Thiện-nam-tử! Ví như có người đối với kẻ thù giả làm thân thiện, theo sát bên như bóng theo hình, chờ khi thuận tiện mà giết đó, nếu phòng bị chặt chẽ, thời người kia không hại được. Cũng vậy, sự chết luôn theo rình chúng sinh chờ dịp làm hại, chỉ không thể hại được bậc Đại-Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại- niết-bàn, vì bậc Bồ-Tát này chẳng phóng dật.

Lại này Thiện-nam-tử! Ví như trời bỗng mưa kim cương xối xuống tất cả cỏ cây, núi rừng, đất cát, ngói, đá, vàng, bạc, lưu ly, cùng tất cả vật đều bị hư nát, chỉ kim cương chân bảo không bị hư. Cũng vậy, sự chết đều có thể phá hoại tất cả chúng sinh, chỉ trừ kim cương Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.

Lại này Thiện-nam-tử! Như Kim-súy-điểu có thể nuốt các loài rồng, chỉ không nuốt được rồng thọ Tam-quy-y. Cũng vậy, sự chết có thể nuốt tất cả chúng sinh, chỉ trừ Bồ-Tát trụ ba môn chính định: Không, vô tướng vô nguyện.

Lại này Thiện-nam-tử! Như độc rắn ma-la, khi rắn này cắn nhằm người, những chú hay, thuốc tốt đều không cứu được, chỉ có chú A-Kiệt Đa-Tinh là có thể chữa lành. Cũng vậy, sự chết tất cả phương thuốc đều không cứu được, chỉ trừ Bồ- Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.

Lại này Thiện-nam-tử! Như có người bị nhà vua giận, có thể dùng lời dịu dàng khéo léo, dâng của cải châu báu mà đặng khỏi tội. Sự chết không như vậy, dầu dùng lời nói dịu dàng, tiền của châu báu để cống dưng cũng chẳng thoát khỏi.

Này Thiện-nam-tử! Luận về sự chết là chỗ hiểm nạn, không gì giúp đỡ, đi đường xa xôi mà không bạn bè, ngày đêm đi luôn chẳng biết bờ mé, sâu thẳm tối tăm, không có đèn đuốc, nó vào không có cửa nẻo mà có chỗ nơi, dầu không chỗ đau đớn nhưng chẳng thể chữa lành, nó qua không ai ngăn được, nó đến không thể thoát được, không phá phách gì mà người thấy sầu khổ, nó không phải màu sắc xấu xa mà làm cho người kinh sợ. Nó ở bên thân người mà chẳng hay biết được.

Này Ca-Diếp Bồ-Tát, do những điều dụ đó cùng vô lượng thí dụ khác, nên biết sự chết thật là rất khổ.

Đây gọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sát tử khổ.

NàyThiện-nam-tử! Thế nào là Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết- Bàn quán sát ái-biệt-ly khổ? Ái biệt-ly này có thể làm cội gốc cho tất cả sự khổ. Như nói bài kệ rằn :

Nhân ái sinh lo,

Nhân ái sinh sợ,

Nếu lìa sự ái,

Nào lo nào sợ.

Vì ái nên sinh sự lo khổ, vì lo khổ nên làm cho chúng sinh có già suy. Ái- biệt-ly khổ là nói sự chết. Vì biệt-ly hay sinh những sự khổ vi-tế, nay sẽ vì ông mà phân biệt rõ ràng.

Này Thiện-nam-tử! Thuở quá khứ người sống vô lượng tuổi, có quốc vương tên là Thiện-Trụ nhà vua trị nước tám muôn bốn ngàn năm. Trên đỉnh đầu của vua mọc lên một bứu thịt mềm nhuyễn như bông. Bứu ấy lần lần to lớn, không làm đau nhức. Mãn mười tháng, bứu ấy nứt ra, sinh một đồng tử hình dung đẹp lạ. Nhà vua vui mừng đặt tên là Đỉnh-Sinh.

Thời gian sau vua Thiện-Trụ đem việc nước giao cho Thái-tử Đỉnh-Sinh, tồi rời bỏ cung điện quyến thuộc vào núi tu hành. Ngày rằm Thái-Tử Đỉnh-Sinh lên ngôi, đương ở trên lầu cao tắm gội trai giới, phương Đông liền có báu kim- luân, bánh xe vàng đủ một ngàn cây căm tự nhiên bay đến. Vua Đỉnh-Sinh nghĩ rằng: Từng nghe Ngũ-Thông tiên nhân nói: Nếu dòng vua Sát-Đế-Lợi ngày rằm ở trên lầu cao tắm gội trai giới, có báu kim luân đủ ngàn cây căm tự nhiên bay đến, thời nhà vua đó sẽ đặng làm Chuyển-Luân Thánh-Vương. Nay ta nên thí nghiệm. Nghĩ xong, vua Đỉnh-Sinh tay tả bưng báu kim-luân, tay hửu cầm lư hương, qùy gối bên mặt mà phát thệ rằng: Nếu đây thiệt là báu kim-luân, thời nên bay đi như vua Chuyển-Luân Thánh-Vương thuở quá khứ. Nhà vua phát thệ vừa xong, thời báu kim-luân bay lên hư không, bay khắp mười phương, rồi trở về dừng lại trên tay tả vua Đỉnh-Sinh. Nhà vua vui mừng biết chắc mình sẽ là Chuyển-Luân Thánh-Vương.

Sau đó không bao lâu, có tượng bảo xuất hiện, mình trắng như bạch liên-hoa, xinh đẹp, mạnh mẽ đôi ngà chấm đất. Vì muốn thí nghiệm vua Đỉnh-Sinh liền bưng lư hương quì gối bên hữu mà phát thệ rằng: Nếu thật là báu bạch tượng nên bay đi như thuở vua Chuyển-Luân Thánh-Vương quá khứ. Phát thệ xong, bạch tượng liền từ sáng đến chiều bay đi khắp tám phương, tột đến mé biển, rồi trở về cung vua. Kế đó lại có Mã-bửu xuất hiện, lông màu xanh biếc mướt đẹp, lông đuôi cùng gáy màu vàng ròng. Vì muốn thí nghiệm vua Đỉnh-Sinh tay bưng lư hương quì gối bên hữu phát thệ rằng: Nếu thiệt là Mã-bảo thời phải như của vua Chuyển-Luân Tính-Vương thuở quá khứ. Phát thệ xong, từ sáng đến chiều, Mã-bảo ấy đi khắp tám phương, đến mé biển rồi trở về cung vua.

Kế đó lại có Nữ-bảo xuất hiện xinh đẹp đệ nhất, chân lông thoảng mùi chiên đàn, hơi miệng thơm sạch như hoa sen xanh, mắt sáng nhìn xa một do tuần, tai nghe, mũi ngữi cũng xa như mắt, lưỡi rộng lớn le ra có thể trùm cả mặt, da mịn láng như lá đồng đỏ, rất thông minh có trí huệ, lời nói dịu dàng đối với tất cả mọi người. Tay người ấy lúc chạm đến áo của vua, liền biết thân vua khỏe mạnh hay bệnh hoạn, cũng biết những ý nghĩ của vua.

Kế đó trong cung vua tự nhiên có Ma-ni bảo châu lớn bằng bắp vế của người, màu thuần xanh, trong suốt, trong chỗ tối có thể chiếu sáng một do tuần. Nếu trời mưa giọt lớn như trục xe, thế lực của bảo châu này có thể che một do tuần, giọt mưa không rơi xuống được.

Sau đó, lại có Chủ-tạng thần hiện ra, cặp mắt có thể thấy thấu những kho châu báu ở trong lòng đất, tùy ý vua muốn đều có thể dưng đủ. Vua Đỉnh-Sinh muốn thí nghiệm bèn cùng Chủ-tạng thần ngồi thuyền ra biển, vua bảo chủ-tạng thần: Nay ta muốn đặng châu báu. Chủ-tạng thần liền lấy hai tay quậy nước biển, đầu mười ngón tay liền hiện ra mười kho châu báu lấy dưng cho vua tâu rằng: “Tùy ý nhà vua chọn dùng, còn thừa lại nên ném trả xuống biển”.

Kế đó lại có chủ-binh thần xuất hiện, thao lược đệ nhất, điều khiển bốn binh chủng rất giỏi. Lúc vua cần binh thời hiện quân lính ra để dùng. Lúc chẳng dùng binh, thời quân lính ẩn mất. Xứ nào chưa hàng phục chủ binh thần này có thể làm cho hàng phục. Xứ nào đã hàng phục, thời đủ sức giữ gìn.

Lúc đó vua Đỉnh-Sinh tự biết là Chuyển-Luân -Vương, bèn bảo các quan: “Cõi Diêm-Phù-Đề này an ổn giàu vui, nay bảy báu đã đủ, cả ngàn vương tử cũng đủ, giờ đây nên làm việc gì?”.

Các quan tâu: “Châu Phất-Bà-Đề phương Dông còn chưa qui thuận, đại vương nên đem binh qua chinh phục”.

Vua Đỉnh-Sinh bèn cùng thất-bảo bay qua châu Phất-Bà-Đề, nhân dân trong châu đó đều vui mừng qui thuận.

Các quan lại tâu nên chinh phục châu Cù-Đà-Ni ở phương Tây. Kế đó lại đến chinh phục châu Uất-Đơn-Việt. Sau khi chinh phục ba châu xong. Vua Đỉnh-Sinh bảo các quan: “Châu Nam-Diêm-Phù-Đề này cùng ba châu đều an onå giàu vui, tất cả đều qui thuận ta, nay đây lại nên làm việc gì?”.

Các quan tâu: “Cõi trời Đao-Lợi tuổi thọ dài lâu, an ổn, khoái lạc, thân chư Thiên xinh đẹp hơn nhân gian, cung điện nhẫn đến giường ghế toàn bằng bảy báu, cậy phước trời chưa chịu đến qui phục, nay nên đem binh đánh dẹp”.

Vua Đỉnh-Sinh lại cùng thất bảo bay lên cõi trời Đao-Lợi, trông thấy một cây màu xanh đậm bèn hỏi đại thần: Đó là cây gì?

Đại-thần tâu: Cây ấy tên là Ba-Lợi-Chất-Đa-La, chư Thiên cõi Đao-Lợi này đến ngày mùa hạ thường tựu hợp vui chơi dưới cây đó.

Lại trông thấy màu trắng như bạch vân, vua Đỉnh-Sinh hỏi đại thần chỗ đó là gì? Đại-thần tâu đó là thiện-pháp-đường, chư thiên cõi Đao-Lợi thường nhóm nơi đó để bàn luận những việc cõi trời cõi người.

Thiên-Chúa Thích-Đề-Hoàn-Nhân biết vua Đỉnh-Sinh đã đến, liền ra tiếp rước, cầm tay vào thiện-pháp-đường lên tòa mà ngồi. Hai vua hình dung tướng mạo giống nhau, chỉ có đôi mắt nhìn nháy là khác nhau.

Lúc đó vua Đỉnh-Sinh nghĩ rằng: nay ta có thể đuổi thiên-chúa này để ta ở đây làm thiên-vương.

Thiên-Đế-Thích vốn thọ trì đọc tụng kinh điển Đại-thừa, thường vì chư Thiên giảng thuyết, chỉ chưa thông đạt hết thâm nghĩa của kinh. Do thọ trì giảng thuyết Đại-thừa nên Thiên-Đế có oai đức hơn.

Khi vua Đỉnh-Sinh khởi ác tâm đối với Thiên-Đế, tổn phước liền tự rớt xuống Diêm-Phù-Đề, nhớ tiếc cõi trời lòng rất khổ não. Không bao lâu vua Đỉnh-Sinh phải bệnh chết.

Này Thiện-nam-tử! Thiên-Đế thuở đó chính là Phật Ca-Diếp, vua Đỉnh-Sinh thời là tiền thân của ta.

Này Thiện-nam-tử! Phải biết ái-biệt-ly như vậy rất là khổ não.

Này Thiện-nam-tử! Đại-Bồ-Tát còn nhớ những trường hợp ái-biệt-ly khổ thuở quá khứ, huống là Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn mà nên chẳng quán sát sự ái-biệt-ly khổ trong đời hiện tại!

Này Thiện-nam-tử! Thế nào là Đại Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại- Niết-Bàn quán sát oán-tắng-hội khổ?

Đại-Bồ-Tát này quán sát địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ, loài người, trên trời đều có sự oán-tắng-hội-khổ như vậy.

Ví như có người quán sát lao ngục giam nhốt, gông xiềng là rất khổ. Cũng vậy, Đại-Bồ-Tát quán sát năm loài chúng sinh đều là oán-tắng-hội-hiệp rất khổ sở.

Ví như có người thường sợ kẻ oán thù, gông cùm, xiềng xích, nên bỏ cha mẹ, vợ con, quyến thuộc, cùng của báu sản nghiệp mà trốn lánh đi xa. Cũng vậy, Đại-Bồ-Tát sợ sinh tử, nên tu hành sáu môn Ba-La-Mật, chứng nhập Niết-Bàn. Đây gọi là Bồ-Tát tu hành Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sát oán-tắng-hội khổ.

Này Thiện-nam-tử! Thế nào là Đại-Bồ-Tát tu hành Đại-thừa Đại-Niết- Bàn quán sát cầu-bất-đắc khổ?

Cầu là mong cầu tất cả, có hai thứ: Một là cầu pháp lành, hai là cầu pháp chẳng lành. Cầu pháp lành mà chưa đặng thời khổ, pháp ác muốn rời mà chưa rời được thời khổ.

Đây là lược nói ngũ-ấm-thịnh khổ. Đây gọi là khổ đế.

Ca-diếp Bồ-Tát bạch Phật: “Thế-Tôn! Như lời Phật nói, ngũ ấm thịnh khổ nghĩa đó chẳng phải. Vì như ngày trước Phật bảo Thích-Ma-Nam: Nếu sắc là khổ, tất cả chúng sinh lẻ ra chẳng nên cầu sắc, nếu có người cầu thời chẳng gọi là khổ. Lại như Phật bảo các Tỳ-kheo thọ có ba thứ: Khổ thọ, lạc thọ, bất khổ bất lạc thọ. Lại như lúc trước đức Phật nói với các Tỳ-kheo: Nếu người nào có thể tu hành pháp lành thời đặng thọ lạc. Lại như đức Phật nói: Ở trong đường lành sáu căn lãnh thọ sáu cảnh vui: Mắt thấy sắc đẹp là vui, tai, mũi, lưỡi, thân nhẫn đến ý suy nghĩ pháp lành cũng như vậy.

Như Phật từng nói kệ :

Trì giới thời là vui,

Thân chẳng thọ sự khổ.

Ngủ nghỉ đặng an ổn,

Thức dậy lòng vui vẻ.

Lúc nhận lấy y thực,

Đọc tụng và kinh hành,

Ở riêng nơi núi rừng,

Như vậy là rất vui.

Nếu đối với chúng sinh,

Ngày đêm tu lòng từ,

Nhân đây được thường vui,

Vì chẳng hại người khác.

Ít muốn biết đủ vui,

Học rộng biết nhiều vui,

A-La-Hán không chấp,

Cũng gọi là thọ vui,

Các vị Đại Bồ-Tát,

Rốt ráo đến bờ kia.

Những việc làm đã xong,

Đây gọi là rất vui.

Thế-Tôn! Trong các bộ kinh nói về tướng vui ý nghĩa như vậy. Thế nào tương ứng với nghĩa của Phật nói hôm nay?

Phật bảo Ca-Diếp Bồ-Tát: “Lành thay! Lành thay! Ông khéo có thề thưa hỏi đức Như-Lai những nghĩa như vậy”.

Này Thiện-nam-tử! Tất cả chúng sinh đối với sự khổ hạng hạ tưởng lầm là vui. Vì thế nên nay ta nói tướng khổ không khác với ngày trước đã nói.

Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật: “Như lời Phật hỏi: Đối với sự khổ hạng hạ tưởng cho là vui, thời sinh, lão, bệnh, tử hạng hạ cùng ái-biệt-ly, cầu-bất-đắc, oán-tắng-hội, ngũ-ấm-thịnh hạng hạ, những sự khổ như vậy lẽ ra cũng nên có vui.

Thế-Tôn! Sinh hạng hạ là ba ác thú, sinh hạng trung là loài người, sinh hạng thượng là trên trời.

Nếu lại có người hỏi rằng: Nếu ở nơi sự vui hạng hạ tưởng cho là khổ, trong sự vui hạng trung tưởng cho là không khổ không vui. Trong sự vui hạng thượng tưởng cho là vui, thời phải trả lời thế nào?

Thế-Tôn! Nếu trong sự khổ hạng hạ tưởng cho là vui, chưa thấy có người nào sẽ bị phạt đánh ngàn trượng, lúc mới đánh một trượng đầu mà đã tưởng là vui. Nếu lúc đánh trượng đầu chẳng tưởng là vui, thế sao nói rằng: Nơi trong sự khổ hạng hạ mà tưởng cho là vui?”.

Phật bảo Ca-Diếp Bồ-Tát: “Phải lắm! Phải lắm! Đúng như lời ông nói. Do nghĩa này nên không có tưởng là vui, vì như người tội kia sẽ bị phạt đánh ngàn trượng, khi bị đánh một trượng rồi liền đặng tha. Người này bèn sinh lòng vui. Vì thế nên biết rằng trong sự không vui lầm tưởng là vui”.

Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật: Thế-Tôn! Người đó chẳng vì bị đánh một trượng mà sinh vui. Chính vì đặng tha mà sinh lòng vui.

Này Thiện-nam-tử! Vì thế nên ta ngày trước nói với Thích-Ma-Nam trong ngũ ấm có vui, lời đó là đúng, thiệt chẳng phải mâu thuẩn vậy.

Này Thiện-nam-tử! Có ba thọ và ba khổ. Ba thọ là: Lạc thọ, khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ. Ba khổ là: Khổ-khổ, hành khổ, hoại khổ.

Này T.hiện-nam-tử! Khổ thọ chính là cả ba món khổ : Khổ-khổ, hành khổ và hoại khổ. Hai món thọ kia chính là hành khổ và hoại khổ. Do đây nên trong sinh tử thiệt có lạc thọ. Đại-Bồ-Tát thấy tính khổ cùng tính lạc chẳng rời lìa nhau nên nói rằng tất cả đều khổ.

Này Thiện-nam-tử! Trong sinh tử thiệt không có vui, vì chư Phật Bồ-Tát tùy thuận thế gian nên nói là có vui.

Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật: “Thế-Tôn! Chư Phật và Bồ-Tát nếu tùy theo thế tục mà nói, thời là có hư vọng chăng? Như Phật thường nói, người tu hành pháp lành thời thọ quả báo vui. Trì giới an vui thân chẳng thọ khổ, nhẫn đến việc làm đã xong đây là rất vui. Lời nói thọ vui trong các kinh như vậy, chừng có hư vọng chăng . Nếu là hư vọng, thời chư Phật Thế-tôn trong vô lượng trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ-kiếp tu hành đạo bồ-đề đã lìa vọng ngữ. Nay Phật nói như vậy ý nghĩa thế nào?”.

Này Thiện-nam-tử! Như bài kệ nói về những sự thọ lạc trước kia chính là cội gốc của đạo Bồ-Đề, cũng có thể trưởng-dưỡng vô thượng bồ-đề. Do nghĩa đó nên trong những kinh trước nói tướng vui như vậy.

Ví như trong thế gian những đồ cần dùng cho đời sống, có thể làm nhân cho sự vui, nên gọi là vui. Như nữ sắc, rượu uống, đồ ăn ngon, lúc khát được nước, lúc lạnh được lửa, y phục, chuỗi ngọc, voi ngựa, xe cộ, tôi tớ, vàng, bạc, lưu ly, san hô, chân châu, kho đựng lúa gạo, những vật như vậy người đời cần dùng có thể làm nhân cho sự vui nên gọi là vui.

Này Thiện-nam-tử! Những vật như vậy cũng có thể sinh sự khổ. Nhân nơi nữ sắc sinh sự khổ, lo, rầu, buồn, khóc nhẫn đến phải chết cho người nam. Nhân nơi rượu, đồ ăn ngon, nhẫn đến lúa gạo cũng có thể làm cho người phải lo khổ nhiều. Do nghĩa đó nên tất cả đều khổ không có tướng rốt ráo vui.

Này Thiện-nam-tử! Đại-Bồ-Tát nơi tám điều khổ này, hiểu rỏ là khổ nên không bị khổ.

Này Thiện-nam-tử! Tất cả hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác chẳng biết nhân của sự vui, nên Phật vì họ ở trong sự khổ hạng hạ nói có tướng vui. Chỉ có Bồ- Tát trụ nơi Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn bèn có thể biết nhân của sự khổ sự vui này.

Này Thiện-nam-t ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát trụ nơi Đại-Thừa Đại-Niết- Bàn quán sát tập đế? Đại-Bồ-Tát quán sát tập đế là nhân duyên ngũ ấm. Tập nghĩa là trở lại ái-luyến nơi hữu. Ái có hai thứ: Một là ái thân mình, hai là ái đồ cần dùng. Lại có hai thứ: Năm thứ dục lạc, lúc chưa đặng tâm luôn tìm cầu, đã tìm cầu đặng rồi luôn đắm trước. Lại có ba thứ: dục ái, sắc ái, vô sắc ái. Lại có ba thứ: Nghiệp nhân duyên ái, phiền não nhân duyên ái, khổ nhân duyên ái. Người xuất gia có bốn thứ ái: Y phục, đồ ăn uống, đồ nằm, thuốc thang. Lại có năm thứ: Tham lam nơi ngũ ấm, tùy chỗ cần dùng tất cả đều tham ái toan tính phân biệt vô-lượng vô-biên.

Này Thiện-nam-tử! Ái có hai thứ: Một là thiện ái, hai là bất thiện ái. Chỉ người ngu tìm cầu bất thiện ái. Các vị Bồ-Tát cầu nơi thiện-ái. Thiện ái lại có hai thứ: Bất thiện và thiện. Cầu pháp Nhị-thừa gọi là bất thiện. Cầu pháp Đại- thừa gọi là thiện.

Này Thiện-nam-tử! Kẻ phàm phu tham ái gọi là “tập” chẳng gọi là “đế”. Sự ái của Bồ-Tát thời gọi là thật đế chẳng gọi là tập, vì Bồ-Tát muốn độ chúng sinh nên thị hiện thọ sinh, chẳng phải vì tham ái mà thọ sinh.

Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật: Thế-Tôn! Như trong các kinh khác đức Phật vì chúng sinh mà nói nghiệp làm nhân duyên, hoặc nói kiêu mạn, hoặc nói lục xúc, hoặc nói vô minh làm nhân duyên mà có ngũ ấm xí-thịnh. Hôm nay do nghĩa gì đức Phật nói bốn Thánh-Đế riêng lấy ái làm nhân cho ngũ ấm.

Phật khen Ca-Diếp Bồ-Tát: “Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ông vừa nói, các nhân duyên chẳng phải làm cũng chẳng phải nhân, chỉ vì năm ấm cần phải nhân nơi ái”.

Ví như quốc vương lúc đi tuần du các quan quyến thuộc thảy đều theo hầu. Cũng vậy, ái đi đến chỗ nào thời các kiết sử cũng đi theo.

Ví như y phục thấm mồ hôi, bụi bay đến liền bám dính. Cũng vậy, chỗ nào có ái những nghiệp kiết cũng ở nơi đó.

Ví như đất ướt thời có thể mọc mầm. Cũng vậy, ái có thể sinh tất cả mầm nghiệp phiền não.

Này Thiện-nam-tử! Đại Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sát kỹ ái này có chín thứ: Một là như thiếu nợ, hai là như vợ La-Sát, ba là như trong cọng hoa đẹp có rắn độc vấn, bốn là như vật thực độc mà cố ăn đó, năm là như dâm nữ, sáu là như hột ma-lâu-ca, bảy là như thịt thúi trong mụn nhọt, tám là như gió bão, chín là như sao chổi.

Như thiếu nợ là thế nào! Ví như người nghèo cùng thiếu tiền của người khác, dầu đã trả nợ mà vẫn còn thiếu, nên bị giam nhốt chưa ra khỏi ngục. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giác vì còn tập khí thừa của ái nên chẳng chứng đặng vô thượng bồ-đề.

Như vợ La-Sát là thế nào? Ví như có người lấy gái La-Sát làm vợ, gái La- Sát này hễ sinh con liền ăn thịt, ăn thịt con đẻ hết lại ăn luôn thịt chồng. Ái cũng vậy, tùy người sinh thiện căn nó liền ăn, ăn hết thiện căn nó lại ăn luôn cả người làm cho phải đọa địa ngục, súc sinh ngã quỉ. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.

Như cọng hoa đẹp có rắn độc vấn là thế nào? Như có người thích hoa đẹp mà chẳng thấy cọng hoa có rắn độc, liền đến ngắt hoa bị rắn cắn chết. Tất cả phàm phu tham đắm ngũ dục mà chẳng thấy độc hại của ái, nên bị ái làm hại, sau khi chết đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.

Vật thực độc mà cố ăn là thế nà ? Như có người cố ăn vật thực độc, ăn xong đau bụng thổ tả mà chết. Chúng sinh trong ngũ đạo vì tham ái mà phải bị đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.

Như dâm nữ là thế nào? Ngư người ngu tư thông với dâm nữ, dâm nữ này thường dối phĩnh gạt đoạt hết tiền của rồi xua đuổi người ấy. Người ngu không có trí tuệ bị tham ái đoạt tất cả pháp lành rồi xua đuổi vào trong ba đường ác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.

Như hột ma-lâu-ca là thế nào? Nếu chim ăn hột ma-lâu-ca, phẩn chim do gió thổi rớt dưới cây liền mọc lên đeo vấn cây to làm cho khô chết, tham ái ràng buộc phàm phu làm cho pháp lành không tăng trưởng nhẫn đến khô diệt, sau khi chết đọa vào ba đường ác. Chỉ trừ các vị đại Bồ-Tát.

Thịt thúi trong mụn nhọt như thế nào? Như người bị ung nhọt, trong nhọt sinh thịt thúi, người bệnh này phải chuyên tâm chạy chữa, nếu chểnh mãng thời thịt thúi sinh trùng có thể phải chết, ngũ ấm của phàm phu cũng như vậy, ái sinh trong đó, phải nên siêng năng điều trị tham ái, nếu không điều trị sẽ phải đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.

Như gió bão là thế nào? Gió bão có thể làm lở núi ngã cây. Cũng vậy, tham ái sinh tâm ác đối với cha mẹ, có thể làm ngã trốc cội cây vô thượng Bồ- Đề của các ông Đại-Trí Xa-Lợi-Phất vân vân. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.

Như sao chổi là thế nào? Như sao chổi mọc thời trong thiên hạ phải bệnh tật, đói kém, họa tai khổ sở. Cũng vậy, ái có thể dứt tất cả căn lành làm cho phàm phu cơ cùng thiếu thốn sinh bệnh phiền não lưu chuyển trong sinh tử mang nhiều sự khổ. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.

Này Thiện-nam-tử! Đại-Bồ-Tát Đại-Thừa trụ nơi Đại-Niết-Bàn quán sát tham ái có chín thứ như vậy.

Do nghĩa trên đây, hàng phàm phu có khổ, không đế. Hàng Thanh-Văn Duyên- Giác có khổ đế mà không chân thật. Các vị Bồ-Tát hiểu khổ không có khổ mà có chân đế. Hàng phàm phu có tập không có đế. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giác có tập có tập đế. Các vị Bồ-Tát hiểu tập không có tập mà có chân đế. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giác có diệt mà chẳng phải chân. Đại-Bồ-Tát có diệt có chân đế. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giác có đạo mà chẳng phải chân. Đại Bồ-Tát có đạo có chân đế.

 


 

Viết bình luận

Chúc mừng năm mới
Copyright © 2015 daibaothapmandalataythien.org. All Rights Reserved.
Xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Email: daibaothapmandalataythien@gmail.com

Đăng ký nhận tin mới qua email
Số lượt truy cập: 5777434
Số người trực tuyến: